Hình tượng rắn – Nhân vật yêu quái trong truyện cổ tích
TÓM TẮT
Rắn là con vật tự nhiên đã đi vào đời sống và trở thành một biểu tượng văn hoá của
nhân loại. Hình tượng này có rất nhiều biến thể và các ý nghĩa khác nhau. Bài viết tìm
hiểu hình tượng rắn với tư cách là nhân vật yêu tinh, yêu quái – đối thủ của nhân vật chính
trong truyện cổ tích Việt Nam. Tìm hiểu 207 truyện cổ dân gian liên quan đến rắn, bài viết
chỉ ra các đặc điểm và tính chất yêu tinh, yêu quái của hình tượng rắn trong 30 truyện,
qua đó thấy được sự vận động của hình tượng rắn từ trong thần thoại đến cổ tích: Trong
thần thoại là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. Còn trong cổ tích hình tượng rắn là nhân
vật phụ, là đối thủ thử thách để nhân vật chính bộc lộ tài năng và phẩm chất của mình.
hần kì hoặc những hiểu biết quan trọng để có thể trở thành người lớn. “Cái chết tạm thời của người chịu lễ cũng được thể hiện dưới nhiều hình thức như đi lên trời, đi xuống âm phủ, đi vào thế giới của các linh hồn hay là bị một con ác thú nào đó như rồng, rắn, thuồng luồng hay thậm chí là mặt trời ăn thịt”(9). Theo Propp, các hình thức nghi lễ rất phong phú, “không theo một hình thức cố định nào cả nhưng có một số quy định được gọi là bất biến”, và thường có cảnh: “Người được hiến tế phải bò qua một công trình mô phỏng con quái vật. Ở những cộng đồng có nhà cửa, quái vật được mô phỏng là một túp lều, hoặc một ngôi nhà có hình dáng đặc biệt. Người được quái vật nuốt sau khi ra khỏi ngôi nhà thì dường như đã được lột xác, trở thành một người mới hoàn toàn khác trước”(10). Từ việc cầu thân, tự nguyện đến sự cưỡng chế trong việc cống nộp cho quái vật ăn thịt như đã nói ở phần trên là một sự vận động của tư duy thần thoại đến cổ tích, phản ánh thay đổi nhận thức của con người về thế giới tự nhiên nói chung. Từ đây xuất 38 hiện tâm lí chống đối và chinh phục các quái vật ăn thịt. Mô tuýp dũng sĩ diệt rắn ác có lẽ ra đời trên cơ sở ấy. Đảm đương trách nhiệm chống lại sự hoành hành của quái vật thường là một dũng sĩ tài giỏi. Đến đây người dũng sĩ diệt rắn ác “sẽ là đại diện văn hoá, là người khám phá ra bí mật của tự nhiên để giải phóng con người, cải tạo cuộc sống và xây dựng nền văn hoá”(11). Việc Thạch Sanh nhận được bộ cung tên bằng vàng sau khi thiêu xác Chằn tinh là phần thưởng cho nỗ lực giải mã tự nhiên của con người. Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh với ác thú không phải bao giờ người dũng sĩ cũng chiến thắng. Nhiều khi dũng sĩ cũng bị nuốt, thậm chí bị chết nhưng cuối cùng quái vật cũng đã bị tiêu diệt. Điều đáng chú ý ở đây là quái vật thường bị dũng sĩ chặt đầu, băm thành nhiều khúc, bị tiêu hủy (Truyện A Xanh) Đây có lẽ không đơn thuần là một chiến thắng mà chiến thắng triệt để, hoàn toàn, dù mất mát hi sinh là có thật. Phải chăng chinh phục tự nhiên, vượt lên làm chủ tự nhiên là khát vọng muôn đời của người xưa, người nay và cả mai sau. Trong truyện cổ của người Việt, đôi khi diệt rắn ác không phải là một dũng sĩ tài ba. Đó có thể là ông bố bình thường vì thương con bị quái vật bắt cóc, ăn thịt mà liều mình đi giết ác thú, hay một người đánh cá bình thường vì căm giận ác thú mà hành động. Truyện Con thuồng luồng kể rằng! Ngày xưa, có một bác nông dân nghèo có một cô con gái bị thuồng luồng bắt mất. Bác quyết tâm đi giết thuồng luồng để trả thù cho con. Hay trong truyện Ông lão bán muối giết thuồng luồng, đối thủ của quái vật cũng chỉ là người bán muối bình thường. Rõ ràng, trong cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên, những người nông dân có phẩm chất bình thường trong nỗ lực bảo vệ thành quả lao động của mình đã trở thành những vị anh hùng trên mặt trận văn hoá. Để tiêu diệt quái vật, các nhân vật dũng sĩ không những phải có tài năng, lòng can đảm mà còn phải có vũ khí. Một mô tuýp được lặp lại nhiều lần là đối thủ của quái vật luôn luôn có công cụ, vũ khí bằng sắt như con rựa, kiếm, dao... Mỗi chi tiết, mô tuýp nào đó tồn tại trong truyện cổ dân gian đều không bao giờ vô lí và ngẫu nhiên. Chúng tôi cho rằng mô tuýp này ẩn chứa bên trong những vấn đề về văn hoá lịch sử cần được giải mã. Theo từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Sắt là “biểu tượng của tính cường tráng, sự cứng rắn, tính bướng bỉnh, tính hà khắc thái quá, tính không lay chuyển được”(12). Trong khi đó thanh kiếm lại biểu tượng cho phẩm chất dũng cảm của nghề nhà binh. “Quyền lực của kiếm có hai mặt: nó tiêu hủy nhưng có thể tiêu hủy sự bất công, sự độc ác, sự ngu tối và vì vậy có tác dụng tích cực; và nó xây dựng, nó kiến lập và duy trì hoà bình và công lí” và khi kết hợp với cái cân, thanh kiếm có ý nghĩa riêng về công lí: “thanh kiếm phân biệt thiện ác, trừng trị kẻ tội phạm”(13). Có thể nói, trong rất nhiều ý nghĩa biểu trưng của sắt, kiếm nổi bật ý nghĩa phân biệt thiện ác và trừng trị kẻ phạm tội. Ý nghĩa này hoàn toàn phù hợp với logic và triết lí của truyện cổ tích: Trong cuộc xung đột giữa cái thiện và cái ác, cái ác luôn bị trừng phạt đích đáng. Ở đây quái vật rắn với tư cách là nhân vật ăn thịt, kẻ bắt cóc, gây hại đã trở thành một thế lực đối kháng mà con người luôn luôn muốn tiêu diệt. Và chàng dũng sĩ, ông bố, ông lão bán muối cùng với “thanh gươm công lí” đã thực hiện việc cần làm trong cuộc chiến với quái vật gây hại. 39 Tuy vậy, nhân vật chính cũng phải trải qua rất nhiều khó khăn, đôi khi phải trả giá bằng tính mạng của mình và thường là nhờ đến vật thần kì nào đó để giết được con rắn thần. Những vũ khí, thậm chí chỉ là công cụ bằng sắt (rựa, dao) của những người diệt rắn mặt nào đó phản ánh công cụ sản xuất bằng sắt đã phát triển, con người tự tăng cường được sức mạnh của mình về mặt vật chất (vũ khí), do đó về mặt tinh thần cũng tăng lên, khát vọng chinh phục tự nhiên đã dẫn đến xu thế giải thiêng của thần thoại và biểu hiện bằng cách giết chết con vật thần thánh. Trong chuyên luận của mình, khi đề cập đến mô tuýp dũng sĩ diệt rắn ác, tác giả Nguyễn Bích Hà có nói đến một thuật ngữ là diễn hoá mô tuýp như “là sự tồn tại, vận động và biến hoá của từng mô tuýp trong từng thời kì, thời đại lịch sử của từng dân tộc, khu vực và toàn thế giới”. Tác giả cho rằng: “Diễn hoá hay sự vận động và phát triển luôn luôn là cuộc đấu tranh lâu dài giữa cũ và mới, giữa khuynh hướng bảo thủ và khuynh hướng cách tân, giữa tư tưởng và hình thức nghệ thuật đã trở nên già cỗi, lạc hậu với những nguyên tắc nhận thức đời sống, những tư tưởng và hình thức nghệ thuật mới mẻ, tiên tiến”. Và “điều quan trọng quyết định sự diễn hoá mô tuýp là sự thay đổi những nguyên tắc nhận thức con người và thế giới. Từ thần thoại đến cổ tích là một quá trình “con người hoá” các nhân vật”(14). Trong sự phát triển của hình tượng rắn từ thần thoại đến cổ tích là cả một quá trình, đi qua không gian và thời gian không xác định, sự biến đổi cũng là điều tất yếu và diễn ra đúng như Nguyễn Bích Hà nhận định. Nhìn chung, “Rắn là một hình tượng vô cùng phức tạp và nhiều vẻ. Mọi nỗ lực đưa ra cách giải thích nhất quán cho hình tượng này từ trước đến nay đều thất bại, và kết luận chung thì lại luôn dẫn đến những kiểu tán đồng và như vậy lại làm sai lệch bản chất của hiện tượng”(15). Hình tượng rắn trong truyện cổ dân gian nói chung là vị thần sáng tạo, khởi thủy; là thủy thần; là người anh hùng và là quái vật, yêu tinh Đôi khi những biểu hiện đó xuyên thấm vào nhau trong cùng một truyện. Tuy vậy, từ góc độ chức năng của nhân vật thì con rắn trong thần thoại là thủy thần – đối tượng được thờ cúng. Điều này thể hiện sự lệ thuộc, cầu thân của con người với tự nhiên. Bước phát triển mới hơn, hình tượng con rắn lại cầu thân với con người qua hình thức đội lốt. Dù vậy, hình thức này vẫn còn mang đậm sự chi phối của tư duy thần thoại khi nó mang dấu ấn của Totem Rắn. Sang đến truyện cổ tích, hình tượng rắn chủ yếu biểu hiện là quái vật, yêu tinh ăn thịt người. Từ góc nhìn tuyến nhân vật thì rắn trong thần thoại là nhân vật chính, nhân vật trung tâm. (Các truyện kể về hình tượng rắn với tư cách nhân vật mang lốt cũng chịu sự chi phối mạnh mẽ của yếu tố thần thoại). Còn trong cổ tích hình tượng rắn là nhân vật phụ, nhân vật thử thách để nhân vật chính bộc lộ tài năng và phẩm chất của mình. Khi rắn ác bị tiêu diệt cũng là lúc xung đột giữa rắn và nhân vật chính được giải quyết và gián tiếp giải quyết mâu thuẫn giữa nhân vật chính với những đối thủ hoặc đối lập của mình. Với tư cách là đối thủ, là đối tượng mà con người muốn tiêu diệt của rắn trong cổ tích làm tính chất đấu tranh với rắn không đơn thuần chỉ là quá trình đấu tranh, khát vọng chinh phục tự nhiên của người xưa mà còn mang những ý nghĩa xã hội sâu sắc khác. 40 Chú thích: 1. Xem thêm, Trần Minh Hường, Hình tượng Rắn qua tục thờ và huyền thoại, Văn hoá Nghệ thuật số 5, 6, 2010. 2. Hoàng Phê chủ biên 2002, Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, trang 1169. 3. Chúng tôi khảo sát 21 tổng tập và tuyển tập dựa trên 02 tiêu chí: dân tộc, khảo sát các truyện của các dân tộc tiêu biểu như: Kinh, Mường, Chăm, Thái, Bana, Êđê, Tày, Nùng, Vân Kiều, CơHo, Mơ Nông, Mạ, Dao, Khơ me Tiêu chí khu vực, vùng miền, chọn các công trình tiêu biểu của ba miền: Bắc, Trung, Nam. Do khối lượng các truyện khảo sát quá dài, trong khuôn khổ một bài báo chúng tôi không có điều kiện đưa vào. 4. Nguyễn Bích Hà, Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ tích Việt Nam và Đông Nam Á, trang 61. 5. Dẫn theo Nguyễn Bích Hà, Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ tích Việt Nam và Đông Nam Á, trang 62. 6. Nguyễn Bích Hà, Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ tích Việt Nam và Đông Nam Á, trang 58. 7. Tuyển tập Propp, tập 1, trang 551, NXB Văn hoá dân tộc & Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật. 8. Chu Xuân Diên, Về cái chết của mẹ con người dì ghẻ trong truyện Tấm Cám, 9. La Ma Gia Thi, Nguồn gốc dân tộc học của mô tuýp tái sinh trong truyện kể dân gian VN, 10. Tuyển tập Propp, tập 1, trang 561, NXB Văn hoá dân tộc & Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật. 11. Nguyễn Bích Hà, Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ tích Việt Nam và Đông Nam Á, trang 58. 12. Chevalier. J và Gheebrant.A (chủ biên) (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Đà Nẵng, trang 806. 13. Chevalier. J và Gheebrant.A (chủ biên) (1997), Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Phạm Vĩnh Cư dịch, Nxb Đà Nẵng, trang 489. 14. Nguyễn Bích Hà, Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện cổ tích Việt Nam và Đông Nam Á, trang 35. 15. Tuyển tập Propp, tập 1, trang 649, NXB Văn hoá dân tộc & Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật.
File đính kèm:
- hinh_tuong_ran_nhan_vat_yeu_quai_trong_truyen_co_tich.pdf