Ngôn từ nghệ thuật trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng

TÓM TẮT

Những thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng độc đáo không chỉ vì đã bóc trần được những mảng

hiện thực xã hội đen tối đầy những bi hài mà còn ở lối thuật kể có duyên và hấp dẫn của một

nghệ sĩ ngôn từ tài năng. Phóng sự của ông được viết bằng dạng ngôn ngữ đời sống, trong đó

chất khẩu ngữ nổi lên như một đặc điểm cơ bản của ngôn từ nghệ thuật. Những lớp từ khẩu ngữ

và một lượng thành ngữ, tục ngữ phong phú được gia công, trau truốt đã trở nên đắc dụng trong

việc tái hiện những bức tranh đời sống sinh động như chính bản thân cuộc đời. Lời văn nghệ

thuật đậm chất khẩu ngữ này đã góp phần tạo nên giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm

phóng sự và gần gũi, mới mẻ cả với người đọc hôm nay.

pdf4 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 406 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Ngôn từ nghệ thuật trong phóng sự của Vũ Trọng Phụng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
 “kênh” ngôn ngữ riêng, thứ biệt ngữ pha rất nhiều tiếng lóng: mòng, 
két, thiếc, trạc xếch, giác mùi, giác bóng, róc mấu, xiếc, v.v. 
Có thể nói các lớp từ khẩu ngữ đủ loại trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đã là một thành tố làm 
nên tính hiện thực sinh động cho tác phẩm. Những từ chạy làng, lệch nghiệp, trần, ít xu đã phản 
ánh nỗi khốn cùng của những kiếp me. Tiếng Tây bồi cát cút đích thị là ngôn ngữ của “vợ” Tây. 
Và những thành ngữ thân làm tội đời, lệch mạng mỡ,v.v. cho thấy sự khốn cùng của tình cảnh 
gia đình kẻ đi ở. Hoặc chỉ cần những yếu tố khẩu ngữ như, có lườn (có tiền), đông tấy lên, chia 
năm xẻ bảy cũng đã “cung cấp” cho ta thấy sự tràn lan của nghề cờ bạc bịp và sự giành giật 
miếng ăn giữa bọn chúng. Mặt khác, chính những thành tố khẩu ngữ này đã làm nên phong cách 
diễn đạt riêng của Vũ Trọng Phụng. 
Không chỉ dùng yếu tố khẩu ngữ để tạo tiếng nói riêng cho mỗi nhân vật, Vũ Trọng Phụng còn 
dùng nhiều yếu tố của phương tiện khẩu ngữ để xây dựng chân dung, khắc họa tính cách. Chẳng 
hạn ở “Cuốn tiểu thuyết” của con sen Đũi, tông tích của nhân vật này đã được kể bằng một lời 
văn pha nhiều khẩu ngữ: 
“ Năm lên 12 tuổi, cái Đũi là con một ông lý trưởng cứng cổ ra phết. Thế rồi từ khi ông lý là 
ông lý, thì cũng như từ khi loài người là loài người của cải của ông cứ việc từ trong nhà “đội nón 
ra đi”. Ruộng cả ao liền của ông lý bán hết sạch sành sanh, cái Đũi phải ra tỉnh đi ở”. 
Trong các phóng sự của mình, Vũ Trọng Phụng đã dùng rất nhiều thành ngữ, tục ngữ. Tuy trong 
khẩu ngữ còn nhiều yếu tố khác, nhưng thành ngữ, tục ngữ là một đơn vị từ vựng, là một thành 
tố tạo nên diện mạo của phong cách khẩu ngữ. Với chức năng là thông báo và định danh, các 
thành ngữ, tục ngữ với số lượng hết sức phong phú và lại được dùng nguyên vẹn như một đội 
quân tinh nhuệ vừa sinh động vì giàu tính hình tượng, vừa có tính khái quát trong lời văn phóng 
sự Vũ Trọng Phụng đã có tác dụng gợi ra cuộc sống thực, làm bức tranh hiện thực của ông rất 
gần với cuộc sống, “y hệt” như cuộc đời. 
Sự phong phú của thành ngữ, tục ngữ trong phóng sự còn biểu hiện ở chỗ, ông không chỉ dùng 
đúng các thành ngữ, tục ngữ dân gian nói về các giới người và nghề nghiệp của họ, mà còn khai 
thác được những thành ngữ lóng của lớp người khác nhau trong xã hội, diễn tả đúng tình cảnh và 
tiếng nói của họ. Chẳng hạn: ở Cạm bẫy người có rất nhiều thành ngữ, tục ngữ đọc lên biết đấy 
là cờ gian, bạc bịp, như: “Thay hình đổi dạng”, “che mắt thế gian”, “thiên biến vạn hóa”, “rong 
chơi bài bạc”, “hỗn quân hỗn quan”, “quay tít như con thò lò”, “bán trời không văn tự”, “thiên 
phương bách kế”, “biết rõ mười mươi”, v.v.. Đặc biệt là những thành ngữ lóng chỉ giới cờ bạc 
bịp mới dùng, như “Đào ngoái xoáy xỏa”, “nhét đất thó vào mũi” (mà lấy tiền), con bạc “mắt 
như rắn ráo”, “khôn sặc máu mồm” (thành ngữ dân gian là “khôn như rái”, “khôn có nọc”). 
Trong phóng sự Kỹ nghệ lấy Tây có những thành ngữ như: “trao xương gửi thịt”, “lá gió cành 
chim”, “bắt được quả tang”. Me Tây dùng thành ngữ Pháp “bồi” “ba xí ba tú”. Thậm chí, tác giả 
còn sửa đổi một vài thành tố của tục ngữ dân gian, “nhại” lại để châm biếm, mỉa mai: “Một 
người lấy Tây cả họ được nhờ”. Ở Cơm thầy cơm cô có những thành ngữ như; “chết rã họng”, 
“năm cha ba mẹ” “ăn chực nằm chờ”, “trầm luân khổ ải”, “con ong cái kiến”, “cơm thừa canh 
cặn” và có những thành ngữ, nói về kiếp người đi ở, như “ăn đói làm no”, “ khổ tuyệt trần 
đời”, “nếm cơm thiên hạ”.v.v. Ở các phóng sự còn lại, thành ngữ, tục ngữ cũng ở dạng như thế. 
Ngoài những thành ngữ, tục ngữ được dùng nguyên vẹn, Vũ Trọng Phụng cũng hay dùng ý hoặc 
một vế của nhiều thành ngữ, tục ngữ khác. 
Một câu hỏi được đặt ra : vì sao Vũ Trọng Phụng lại sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ như vậy? 
Theo chúng tôi, do thành ngữ có đặc trưng là có tính hình tượng và khái quát cao nên phương 
tiện này rất thích hợp với khuynh hướng diễn đạt của họ Vũ là vừa mô tả một cách sống động 
đối tượng vừa làm rõ bản thể vốn thường bị che lấp của nó. 
Ngoài việc sử dụng khẩu ngữ, trong phóng sự của mình, Vũ Trọng Phụng còn dùng nhiều biện 
pháp tu từ. Trong đó, nổi bật là hai biện pháp tu từ so sánh và tương phản. So sánh là biện pháp 
tu từ cơ bản. Xét cho cùng, mọi biện pháp tu từ đều quy về so sánh. Vì vậy, so sánh là “linh hồn” 
của các biện pháp chuyển nghĩa. So sánh tu từ là sự đối chiếu hai hay nhiều đối tượng có một 
dấu hiệu chung nào đấy, nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của đối tượng, đem lại giá trị 
biểu cảm và hiệu quả thẩm mỹ. So sánh tu từ mang màu sắc khẩu ngữ là so sánh được dùng 
riêng cho khẩu ngữ. Vì là dùng riêng cho khẩu ngữ nên so sánh tu từ này chủ yếu mang sắc thái 
biểu cảm âm tính. 
Lối so sánh này xuất hiện khá phổ biến trong những phóng sự của họ Vũ. Chẳng hạn, đây là hình 
ảnh của kẻ bị lũ bạc bịp lột nhẵn túi, thua sạch sành sanh: “Ông chú bác bồi An rũ rượi người 
như con chim bị đạn”. Đây là “chân dung” mụ chủ nhà của con sen Đũi: “ cái má nó đã răn 
reo, nó lại trát phấn bự khắp cả, thành thử trông như mặt ngoáo ộp”. Còn đây là một hình ảnh 
một gái điếm trong lớp học của nhà Lục xì: “nó xấu làm sao, mặt mũi béo phị và xanh nhợt, 
đứng lên khoanh tay lúc ngập ngừng, lúc lưu loát tựa hồ con vẹt” v.v Lối so sánh mang tính 
dân gian như vậy xuất hiện hết sức thoải mái, tự nhiên như chẳng hề có một sự gia công, tô vẽ. 
Để lột tả bản chất của hiện tượng, để mỉa mai, đả kích, phủ định,v.v. Vũ Trọng Phụng còn sáng 
tạo ra nhiều kiểu so sánh theo kiểu “tạt ngang”, trùm lớp hoặc so sánh đối tượng với chính nó. 
Đây là lối so sánh “tạt ngang” như một cú đánh bất ngờ: “ Người Âu ở Đông Dương có cái thói 
quen hễ cứ thấy một người bản xứ làm báo thì nghi cho là làm hội kín, cũng như thấy một người 
vận âu phục lại gần nhà mình là chỉ có một nghề chim vợ Tây (Kỹ nghệ lấy Tây, Sđd, tr. 13). 
Thì ra, tâm địa của lũ người Âu đó thật là xấu xa: nghi ngờ từ chính trị cho đến khoản  tình 
dục Kiểu so sánh này còn được họ Vũ thể hiện ở việc so sánh cái mặt của một me Tây “hầm 
hầm như quan khâm sai Lê Hoan”! Khuynh hướng diễn đạt chung của lời văn phóng sự Vũ 
Trọng Phụng là từ mô tả cái bên ngoài đi vào cái bản thể bên trong của sự vật. Sức mạnh chính 
của so sánh tu từ là nhận thức (còn sức mạnh của ẩn dụ là gợi cảm). Vì thế cho nên, lối so sánh 
tu từ có sắc thái biểu cảm âm tính rất thích hợp với lối diễn đạt cực mạnh nhằm phanh phui “sự 
thật ở đời” của Vũ Trọng Phụng. Lối so sánh này làm cho sức mạnh tố cáo của ngòi bút phóng 
sự họ Vũ tăng lên gấp bội. 
Cùng với so sánh tu từ, biện pháp tương phản cũng được dùng khá thường xuyên trong phóng sự 
Vũ Trọng Phụng. Tương phản (hay đối lập) là biện pháp tu từ sử dụng các từ ngữ biểu thị những 
khái niệm trái ngược nhau cùng trong một văn cảnh, nhằm mục đích làm rõ hơn đặc điểm của 
đối tượng được miêu tả. Trong lời văn phóng sự Vũ Trọng Phụng xuất hiện nhiều lối tương 
phản, để mô tả sự vật, hiện tượng, khắc họa, ngoại hình và nội tâm nhân vật. Chẳng hạn, để thể 
hiện cái nhục, cái khổ của kiếp người đi ở, Vũ Trọng Phụng đã đặt sự tương phản: “ Cái giá trị 
làm người có khi không bằng súc vật (). Mười sáu người, đủ hạng lớn bé trẻ già này, mỗi 
người chỉ cầu như một con chó, nhiều khi kém một con chó” (Cơm thầy cơm cô). Sở dĩ có 
điều này vì “một vài con chó còn được chủ nhà mua thịt bò cho xơi! Có khi con chó mỗi tháng 
khiến chủ tốn kém hơn một đứa tôi tớ trong nhà” (Cơm thầy cơm cô). Nhưng cũng bằng nghệ 
thuật tương phản, Vũ Trọng Phụng đã diễn tả quá trình tha hóa hết sức nhanh chóng của giới 
cơm thầy cơm cô, trong cái môi trường thị thành đầy giả dối: “mới ra tỉnh thì ngẩn ngẩn ngơ ngơ 
mà ở được vài tháng thì ăn cắp như ranh, ăn bớt như quỷ” (Cơm thầy cơm cô, tr.71). 
Bằng lối tương phản, họ Vũ đã bóc trần cái thực trạng đen tối cùng cực của nạn mại dâm thời 
thuộc Pháp “ những cái vú nát nhẽo, những đùi hoặc ghẻ ruồi, hoặc hắc lào, hoặc điểm lấm 
tấm những vòng đen, di tích của trùng giang mai”, “những con ma lem mặt bủng da chì”, “hoàn 
toàn rách rưới, bệ rạc”. Thế mà “tối đến diện quần áo vào, đeo đồ nữ trang vào, một lượt phấn 
trát lên trên những mảng ghét thì một vài ả hóa ra ngon lành, kháu khỉnh trong những con mắt 
mờ vì men rượu của khách làng chơi” (Lục xì, trang 172). 
Thực trạng tệ nạn và những vấn nạn xã hội được bóc trần như vậy là triệt để. Ngòi bút phóng sự 
của Vũ Trọng Phụng không viết kín đáo được mà phải nói toạc ra. Biện pháp tương phản đã rất 
đắc dụng, giúp ngòi bút của ông lật tung cái sự thật đen tối đầy bất công của xã hội đương thời. 
3. KẾT LUẬN 
Lời văn giàu chất khẩu ngữ và những biện pháp tu từ mang màu sắc khẩu ngữ đã làm cho phẩm 
chất hiện thực của phóng sự Vũ Trọng Phụng cao hơn, sâu sắc hơn. Chất khẩu ngữ lại làm cho 
lời văn của họ Vũ “đời” hơn. Sự tương tác này cho thấy ngòi bút phóng sự Vũ Trọng Phụng gắn 
bó chặt chẽ với các phương tiện khẩu ngữ và những biện pháp tu từ mang sắc thái âm tính. Họ 
Vũ ưa dùng, quen dùng và sử dụng thành thạo những phương tiện quý báu đó của ngôn ngữ dân 
tộc, để tạo ra một lời văn với một lối phô diễn cực mạnh, nhằm phanh phui “sự thật ở đời” và 
trực tiếp bộc lộ “niềm căm uất không nguôi” của mình đối với cái xã hội thối tha, vô nhân đạo. 
Khẩu ngữ tự nhiên là một hiện tượng ngôn ngữ không bao giờ xưa cũ vì nó luôn thường trực 
trong lời ăn tiếng nói, trong đời sống ngôn ngữ của con người. Bằng việc sử dụng điêu luyện 
khẩu ngữ tự nhiên, Vũ Trọng Phụng đã làm cho phóng sự của ông tươi rói một thứ ngôn ngữ của 
đời sống. Chính vì vậy, lời văn phóng sự của “ông vua phóng sự” vừa mang tính truyền thống 
vừa hiện đại, rất gần gũi, mới mẻ đối với cả độc giả hôm nay. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Vũ Trọng Phụng (1937), Cơm thầy cơm cô và Lục xì, NXB Minh Phương, Hà Nội. 
2. Vũ Trọng Phụng (1993), Cạm bẫy người, NXB Văn học, Hà Nội. 
3. Vũ Trọng Phụng (1989), Kỹ nghệ lấy Tây, NXB Hà Nội. 
4. Vũ Trọng Phụng (1987), Một huyện ăn Tết, (in trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập II), NXB 
Văn học, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfngon_tu_nghe_thuat_trong_phong_su_cua_vu_trong_phung.pdf