Giọng điệu tự sự trong tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy
Tóm tắt
Giọng điệu có vai trò quan trọng trong nghệ thuật tự sự. Nó không chỉ thể hiện thái độ, tình cảm, lập
trường, tư tưởng, đạo đức trước hiện thực cuộc sống mà còn mang tính chất riêng biệt, độc đáo của mỗi
tác giả. Nhà văn Đỗ Tiến Thụy đã xác lập được giọng điệu tự sự mang dấu ấn của mình ở thể loại tiểu
thuyết. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung tìm hiểu giọng điệu triết luận, giễu nhại, trữ tình qua hai
tác phẩm mà anh dành nhiều tâm huyết là Màu rừng ruộng và Con chim joong bay từ A đến Z
rợ TRẦN VĂN HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 75 thủ đắc lực cho Đỗ Tiến Thụy đả phá vào những hạn chế, tiêu cực trong xã hội. Anh không ngần ngại giễu nhại những phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại ở nhiều miền quê trên đất nước ta. Đặc biệt, với tiểu thuyết Con chim joong bay từ A đến Z, nhà văn gốc Hà Tây đã bóc trần hiện tượng tham nhũng, nhận hối lộ đang tồn tại như những ung nhọt nhức nhối của xã hội. Có thể nói, những trang văn phản ánh về vấn nạn này không chỉ gây ám ảnh cho độc giả mà còn cho thấy tinh thần phê phán của một nhà văn, của một công dân có trách nhiệm trước thời cuộc. 2.2.3. Giọng điệu trữ tình Giọng điệu trữ tình là giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng, đầy chất thơ, khơi gợi trong lòng độc giả những xúc cảm thẩm mĩ. Nó được khởi phát từ những cảm xúc mang tính chủ quan của chủ thể trong tác phẩm, thường xuất hiện trong thơ hoặc văn học lãng mạn. Giọng điệu này được chuyển tải qua hệ thống ngôn từ, hình ảnh gợi hình, gợi cảm, giàu chất thơ; qua việc dùng đa dạng các kiểu câu; tận dụng triệt để các biện pháp tu từ, nhất là so sánh để gợi những liên tưởng độc đáo Khảo sát tiểu thuyết Màu rừng ruộng và Con chim joong bay từ A đến Z, chúng tôi nhận ra giọng điệu trữ tình được thể hiện chủ yếu ở việc miêu tả bức tranh thiên nhiên và nội tâm nhân vật. Tuy nhiên, bài viết này chỉ tập trung tìm hiểu ở khía cạnh miêu tả bức tranh thiên nhiên. Có thể nói, Đỗ Tiến Thụy đã dành nhiều tâm huyết khi miêu tả những bức tranh thiên nhiên sống động, nên thơ, nhiều màu sắc. Đọc tác phẩm của anh, chúng ta như lạc vào thế giới đa sắc của ruộng, của rừng. Khi chăn trâu trên Đồng Mồ, nhân vật Vinh đã cảm nhận về vẻ đẹp của quê mình: “Tháng tám lúa trổ. Cả cánh đồng trắng tơ lúa phơ đòng. Những con rô béo vàng tung mình đớp chấu rơi oạch vào giữa bụi lúa lạch đạch mãi mới thoát. Á à! Thế là Vinh sắm cần câu. Một chiếc giỏ nhỏ như quả bầu be thắt eo đeo bên sườn. Một ống bơ bỏ đầy cào cào, châu chấu. Vinh ngồi vắt vẻo trên lưng Nghé Hoa nhịp nhịp cần câu. Gió đồng thơm lựng. Nắng hanh vàng óng ả. Bầu trời lãng đãng mây trôi. Mỗi lần Vinh búng cần nhấc lên một chú rô là Nghé Hoa quay cổ lại, nhe hàm lợi trọc như cười. Vinh cảm thấy cuộc đời chưa đến nỗi nào. Ai bảo chăn trâu là khổ?” (Đỗ Tiến Thụy, 2017a, tr.15). Với giọng điệu nhẹ nhàng, sâu lắng; câu chữ, hình ảnh đep đẽ, giàu chất thơ, đoạn văn trên đưa người đọc trở về cánh đồng quê vùng đồng bằng Bắc bộ, trở về với những kí ức tươi đẹp của tuổi thơ. Ở đó, có màu trắng tơ của lúa phơ đòng, màu vàng của con rô béo, vàng óng ả của nắng hanh; có hình ảnh cánh đồng vào tháng tám lúa trổ, con cá rô tung mình đớp chấu rồi rơi oạch vào giữa bụi lúa; có cào cào, châu chấu, có Nghé Hoa nhe hàm lợi trọc như cười; gió đồng thơm lựng; bầu trời mây trôi lãng đãng; có trò chơi trẻ thơ câu cá rô đồng, chăn trâu đầy mộng mơ.v.v. Từ cảm thán “á à”, câu khẳng định “Vinh cảm thấy cuộc đời chưa đến nỗi nào”, câu hỏi tu từ mượn từ lời thơ của Giang Nam “Ai bảo chăn trâu là khổ?” đã cho thấy cảm xúc hạnh phúc, sung sướng ngất ngây của nhân vật chính khi được đắm mình vào một không gian thơ mộng, bình yên như vậy. Làng quê của Vinh không chỉ đẹp vào ban ngày mà khi màn đêm buông xuống, trăng lên cũng đẹp không kém: “Lần đầu tiên trong đời Vinh được ăn một bữa ngon như thế. Bữa ăn trên cỏ, dưới trăng vàng ngần ngận. Gió đồng rời rợi mê tơi. Hai anh em táng bay con gà và chai rượu nếp. Lần đầu SCIENTIFIC JOURNAL OF SAIGON UNIVERSITY No. 63 (3/2019) 76 tiên Vinh uống rượu nên đầu óc lầng khầng. Cậu nằm dài trên bãi cỏ gà thênh thênh ngửa mắt nhìn trăng. Trăng mùng tám như cánh diều vàng. Trên trăng là sao. Những vì sao li ti nhấp nháy liên hồi” (Đỗ Tiến Thụy, 2017a, tr.57-58). Cảnh vật vốn dĩ đã đẹp lại được nhìn qua đôi mắt của chàng trai tuổi mười bảy đang chếnh choáng men say sau chầu nhậu lại càng lung linh, huyền ảo hơn. Câu văn ngắn, các từ láy “ngần ngận, rời rợi, thênh thênh, li ti, nhấp nháy” cùng biện pháp tu từ so sánh “Trăng mùng tám như cánh diều vàng” đã đặc tả vẻ đẹp nên thơ của ánh trăng, gió đồng, bãi cỏ.v.v. Chúng hiện lên trước mắt người đọc một cách sống động như thật. Đó là nhờ vào công sức lao động nghệ thuật của Đỗ Tiến Thụy khi những câu văn miêu tả cảnh vật được anh trau chuốt kĩ lưỡng để mang đến rung cảm thẩm mĩ mạnh mẽ trong tâm hồn độc giả. Với tiểu thuyết Con chim joong bay từ A đến Z, chúng tôi thấy dù không gian nghệ thuật ở Hà Nội khá chật chội, chủ yếu chỉ được khắc họa ở nhà cụ Tướng nhưng không vì thế mà giọng điệu trữ tình khi miêu tả bức tranh thiên nhiên bị thiếu hụt. Lần đầu tiên đến nhà cụ Tướng, con joong đã phải thốt lên: “Chòe! Một giàn phong lan buông hoa tha thiết. Một cụ già tóc trắng hoa lau ngồi viết trên bộ bàn ghế làm từ gốc rễ cây rừng gân guốc. Những làn mây mỏng bay vấn vít quanh hoa quanh tóc cụ. Dưới chân cụ là một thằng lợn khoang nằm ngoan ngoãn. Nom cụ hệt một tiên ông giữa động hoa rừng” (Đỗ Tiến Thụy, 2017b, tr.20). Câu cảm thán, ngôn từ có tính hình tượng, giàu cảm xúc đã mang đến cho chúng ta một bức tranh thủy mặc có sự hài hòa giữa con người và thiên nhiên. Giàn phong lan buông hoa tha thiết đã làm cho người đọc trầm trồ về cái đẹp thanh tao, nhã nhặn cùng bộ bàn ghế làm từ rễ cây rừng, làn mây mỏng bay vấn vít quanh hoa, quanh cụ chủ mang đến một không gian như thoát tục. Một cụ già xuất hiện với mái tóc trắng hoa lau ngồi trên bàn viết, dưới chân là thằng lợn khoang nằm ngoan ngoãn. Nó khiến joong phải thốt lên: “Nom cụ hệt một tiên ông giữa động hoa rừng”. Giọng điệu trữ tình ở đây đã phát huy tác dụng khiến cho độc giả như rũ bỏ được những ồn ào, “bụi bặm” của cuộc sống xô bồ ngoài kia mà sống một cách yên bình trong sự hài hòa với thiên nhiên. Đỗ Tiến Thụy có hơn mười năm gắn bó với Tây Nguyên. Vì vậy, khi bàn về giọng điệu trữ tình ở phương diện miêu tả bức tranh thiên nhiên, cảnh vật, độc giả không thể bỏ sót những phân đoạn khiến mình phải trầm trồ thán phục khi anh viết về nơi ấy. Nhà văn đã miêu tả một trận mưa đá trên đỉnh núi Sa Man thật ấn tượng: “Tiếng lộp bộp dày dần. Một viên sỏi ném trúng mũ đánh cốp rồi văng tóe ra xa. Suýt nữa thì Vinh buột miệng reo lên “mưa đá!”. Những viên đá trắng tinh khôi nhảy lao xao trên nền đất thẫm. Vinh đứng nép vào mái lán ngắm nhìn Cửa sổ lều Juny bất ngờ được vén lên. Juny vươn tay ra ngoài trời. Cánh tay trắng muốt hấp tấp gỡ giò phong lan treo ngoài cột. Những bông hoa trắng mỏng manh run rẩy trước những viên đá lạnh... Nàng vẫn vươn tay ra ngoài đón bắt những viên đá nhỏ. Bàn tay ngửa lòng cong cong như chiếc thuyền xinh xắn chao đi chao lại nhẹ nhàng. Những viên đá nhỏ tinh nghịch cố tình chơi trò cút bắt nên không viên nào đậu vào bàn tay chào đón. Juny mải mê với trò hứng đá, thi thoảng lại cất tiếng cười thích thú” (Đỗ Tiến Thụy, 2017a, tr.229). Cảnh ấy, người ấy quá đẹp trong đêm TRẦN VĂN HẢI TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC SÀI GÒN 77 khuya giữa núi rừng Tây Nguyên. Giọng văn nhẹ nhàng, tinh tế, thậm chí run rẩy như giò phong lan run rẩy trước những viên đá lạnh làm lòng ta xốn xang. Hình ảnh những viên đá trắng tinh khôi nhảy lao xao, bông hoa trắng mỏng manh, bàn tay ngửa lòng cong cong của Juny như chiếc thuyền xinh xắn chao đi chao lại nhẹ nhàng hứng những viên đá nhỏ khiến ta chao đảo tâm hồn. Cái đẹp hiện lên trong trẻo, tinh khôi, thuần khiết. Nó giúp nhân vật Vinh lần đầu tiên cảm nhận “một tiếng gác trong đêm sao mà ngắn ngủi” (Đỗ Tiến Thụy, 2017a, tr.230). Có thể nói, về phía tác giả, giọng điệu trữ tình sẽ giúp cho lời văn thêm cảm xúc, đậm chất thơ; giúp cho dòng sự kiện được miêu tả trở nên nhẹ nhàng, bớt xung đột, căng thẳng. Về phía độc giả, nó giúp họ chững lại để nhìn nhận sự việc, để cùng ngẫm suy, vui buồn với nhân vật cũng như được hòa mình vào những bức tranh thiên nhiên thơ mộng, hiền hòa. Chính nhờ giọng điệu này mà tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy trở nên hay hơn, hấp dẫn hơn. 3. Kết luận Giọng điệu mang đặc trưng riêng của mỗi nhà văn, thể hiện tính cá thể hóa rất cao. Nó cho thấy bản lĩnh trong quá trình sáng tạo nghệ thuật. Tiểu thuyết của Đỗ Tiến Thụy có ba giọng chủ là triết luận, giễu nhại, trữ tình. Nếu giọng điệu triết luận mang tính thâm sâu, giảng giải về các quy luật, kinh nghiệm được đúc rút từ thực tiễn; giọng điệu giễu nhại đầy mai mỉa vào nhiều thói tật qua tiếng cười ý nhị thì giọng điệu trữ tình lại nhẹ nhàng, sâu lắng mang đến những rung cảm thẩm mĩ cho bạn đọc. Chúng không tồn tại độc lập, riêng lẻ mà hòa quyện vào nhau mang lại hiệu quả cao cho nghệ thuật tự sự. Qua đó, chúng ta có thể phác họa ra chân dung của Đỗ Tiến Thụy. Đây là nhà văn giàu suy tư, thường nghiền ngẫm về thế sự, về những quan điểm tư tưởng trong xã hội; luôn quan tâm đến hiện thực phức tạp của đời sống, sẵn sàng lên tiếng vạch trần cái xấu, cái ác để bảo vệ điều thiện, lẽ công bằng nhưng cũng không kém phần sâu sắc, tinh tế khi quan sát, miêu tả thiên nhiên và tâm trạng con người. TÀI LIỆU THAM KHẢO Lê Huy Bắc. (1998). Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Tạp chí Văn học, (số 9), tr.56-62. Nguyễn Thị Bình. (2007). Văn xuôi Việt Nam 1975 -1995, Những vấn đề cơ bản. Hà Nội: NXB Giáo dục. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. (2010). Từ điển thuật ngữ văn học. Hà Nội: NXB Giáo dục. Nguyễn Thái Hòa. (2005). Từ điển tu từ - phong cách - thi pháp học. Hà Nội: NXB Giáo dục. Đỗ Tiến Thụy. (2017a). Màu rừng ruộng. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ. Đỗ Tiến Thụy. (2017b). Con chim joong bay từ A đến Z. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ. Lê Ngọc Trà. (2005). Lý luận và văn học. Thành phố Hồ Chí Minh: NXB Trẻ. Ngày nhận bài: 15/02/2019 Biên tập xong: 15/3/2019 Duyệt đăng: 20/3/2019
File đính kèm:
- giong_dieu_tu_su_trong_tieu_thuyet_cua_do_tien_thuy.pdf