Giọng điệu của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ Việt Nam 1965-1975
TÓM TẮT
Thơ ca là tiếng nói khởi nguồn từ nhu cầu giãi bày của tâm hồn nghệ sĩ. Giọng điệu
chính là một phương thức bộc lộ rõ nhất những trạng thái cảm xúc của cái tôi trữ tình. Với
những biểu hiện đa dạng của cái tôi trữ tình, giọng điệu thơ trẻ Việt Nam 1965 - 1975
cũng mang nhiều sắc thái, cung bậc. Đội ngũ sáng tác trẻ đã cùng hoà giọng, tạo nên nền
thơ mang âm hưởng của một thời đại hào hùng. Khát vọng giải đáp những vấn đề nóng
bỏng của hiện thực chiến tranh, khám phá bản chất cuộc sống đã tác động đến giọng điệu
chung của cả nền thơ bấy giờ. Thế hệ nhà thơ trẻ có những bức chân dung tự hoạ với một
sắc giọng mang tầm vóc thời đại mới, tạo nên bản sắc sáng tạo riêng của thơ trẻ Việt Nam
1965 - 1975 trong nền thơ hiện đại.
ậu sang bè trầm của giọng buồn. Dấu ấn đời tư có khi hằn vào thơ viết về dân tộc sự xót xa, hoài nghi trong tuyệt vọng. Đó là giọng điệu chất vấn trong niềm thổn thức của cái tôi trữ tình: Đến bao giờ Người mới được nghỉ ngơi/ Trong nắng ấm và tiếng cười trẻ nhỏ?/ Đến bao giờ đến bao giờ nữa/ Việt Nam ơi? (Việt Nam ơi - Lưu Quang Vũ). Trong hoàn cảnh chống chọi với những cơn sốt rừng già, không ít người lính trong thời chống Mĩ đã ra đi và bỏ lại đằng sau những lời đính hẹn dở dang, những mỏi mòn trông đợi. Cái tôi ngẫm ngợi về sự ra đi đột ngột của người lính trẻ, giọng thơ buồn thương, tiếc hẫng: Gió đi giật cục GIỌNG ĐIỆU CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975 bàng hoàng/ Mây đỉnh núi chít khăn tang ngang trời/ Bao người yêu đã chết rồi/ Còn đau chưa nói được lời yêu nhau (Người đang yêu - Nguyễn Duy). Nỗi đau mất mát không chỉ là câu chuyện bi kịch chiến tranh mà đó còn là những thương tổn tinh thần, vì thế, có thể thấy suy tư, trải nghiệm là chất giọng thể hiện chiều sâu tư tưởng của đội ngũ thơ trẻ. Thường xuất hiện trong thơ những câu hỏi tu từ vừa như chất vấn vừa là tự vấn. Nhất là ở mảng đời riêng tư, giọng thơ đầy dằn vặt qua câu hỏi mang màu sắc hoài nghi, trăn trở: Em nơi đâu? bao năm tháng qua rồi/ Người ta bảo rằng em đã chết/ Người ta bảo quên đi đừng phí sức/ Hãy chấp nhận những vách tường có sẵn/ Em làm gì có thật mà mong (Thơ tình viết về một người đàn bà không có tên III - Lưu Quang Vũ). Có lúc đối mặt với không gian tròng trành, hiểm trở, cái tôi như rơi vào vô vọng; giọng thơ buồn chao chát: Đây cửa sông, nơi anh ra biển/ Nơi anh về. Mong anh được bình yên/ Được bình yên trở lại cùng em/ Nhưng anh chỉ trở về trong những ngày bão tố (Một vùng cửa sông - Xuân Quỳnh). Khi nỗi cô đơn và hụt hẫng đã tột cùng thì con người mang vào thơ chất giọng tự trào. Nhưng chủ thể càng tỏ ra bất cần, giọng thơ lại càng cay đắng: Anh như thằng bờm/ Chẳng thiết trâu bò chẳng thiết lim/ Chỉ nhận nắm xôi cười ngặt nghẽo (Ngã tư tháng chạp - Lưu Quang Vũ). Trong suốt hành trình rong ruổi giữa nhân gian, người nghệ sĩ vẫn khắc khoải với những ước vọng không thỏa. Cái tôi đành gửi câu hỏi còn bỏ ngỏ về bản ngã đích thực của con người vào “di chúc tình yêu”. Giọng thơ rơi vào nỗi mong mỏi kiếm tìm, đầy chất nghiệm sinh: Lẽ sống và lẽ chết của anh/ Ta đi mãi về nhau tìm mãi bản thân mình/ Cuộc tìm kiếm suốt đời không tới đích (Di chúc tình yêu – Lưu Quang Vũ). Khi cuộc sống là những ngày hứng chịu cái nghèo cay cực, khi tiếng máy bay uy hiếp lưng trời, con người rơi vào cảm giác tủi phận trong tình yêu. Nhà thơ không giấu nổi giọng cay đắng xót lòng khi choáng hết tâm can là ám ảnh áo cơm: Có tình yêu nào không cần cơm áo? Em ơi Em đã thấy sáng nay từng mảng cuộc đời Buộc vào nhau bằng những manh áo mỏng Những bát cơm không đủ níu lòng Đi giữa trời Rét mướt (Đi giữa rừng súng máy - Trần Phá Nhạc) Sự thể hiện cái tôi trăn trở về số phận con người trong chiến tranh đã hình thành trong thơ trẻ chất đằm sâu, trầm buồn; đậm tâm sự cá nhân mà giàu sức ám ảnh; nồng nàn mà rất thâm trầm trên nền cảm xúc và suy tưởng. 4. GIỌNG ÂU LO, DỰ CẢM Đến với thế giới riêng tư trong thơ trẻ 1965 - 1975, người đọc không khỏi thảng thốt bởi vẫn phải đối diện với những góc khuất bi kịch. Như đã khẳng định, đây hoàn toàn không phải là trạng thái tinh thần chủ đạo của cái tôi thơ trẻ giai đoạn này, song chính sự xuất hiện của cái tôi chông chênh trong cảm giác tất cả như sắp không còn, sẽ mất trong thơ trẻ đã hình thành thanh âm dự cảm xót đau. Trong các nhà thơ nữ, phải nói Xuân Quỳnh đã đi đến cùng những tiên cảm về hạnh phúc trần thế. Ngay trong chặng sống hạnh phúc, bình yên nhất, thơ chị cũng rung lên những sắc giọng phấp phỏng, chênh chao: Mùa thu nay sao bão mưa nhiều/ Những cửa sổ con tàu chẳng đóng/ Dải đồng hoang và đại ngàn tối sẫm/ Em BÙI BÍCH HẠNH lạc loài giữa sâu thẳm rừng anh (Tự hát). Cái tôi rơi vào trạng thái trơ trọi giữa không gian đầy bão gió, không gian hoang lạnh. Giọng thơ chính là tiếng hớt hải của chủ thể đi tìm mình trong cõi lòng sâu hút của tình yêu. Bởi mang trái tim quá sức vì chăm chút yêu thương, bởi khát khao thâu hết cõi nhớ cõi yêu về với thiên chức của người phụ nữ và cũng bởi mang trái tim đa đoan, thơ Xuân Quỳnh ăm ắp thanh âm dự cảm cách ngăn. Nhiều khi, người thơ không thể đặt hết niềm tin vào người mình yêu. Trong tôi là giọng đan cài mâu thuẫn. Nhớ mong rồi chất vấn, tự nhủ rồi lại tự vấn: Dẫu nhớ em xa quá không gian/ Chớ thương em một mình vất vả/ Em ở đây bạn bè đông đủ cả/ Anh đi con đường này không anh? (Viết trên đường 20). Ngẫm nghiệm trước cái chênh vênh của tình yêu diệu vợi, giọng thơ Xuân Quỳnh thao thiết với nghìn nỗi lo âu: Anh, con đường xa ngái/ Anh, bức vẽ không màu/ Anh, nghìn nỗi lo âu/ Anh, dòng thơ nổi gió/ Mà em người đời thường/ Biết là anh có ở (Anh). Có lẽ bản chất của tình yêu là khao khát vươn đến sự hoàn thiện, vì thế trong những câu chuyện tình tứ giản dị, sáng trong, người phụ nữ vẫn không giấu được cảm thức e ngại, thậm chí không hài lòng khi được người yêu bày tỏ lời khen. Điều tưởng nghịch lí trong hồn thơ Lâm Thị Mỹ Dạ cũng trở nên có lí. Có lí một cách duyên dáng, nũng nịu. Cái tôi cứ thành thật trong giọng ưu tư, lo lắng: Em sợ lời khen của anh/ Như sợ chiều về, hắt tối/ Nhiều khi ngồi buồn một mình/ Trách anh sao mà nông nổi (Anh đừng khen em). Qua nhiều lần vay trả để có lại yêu thương, sau nhiều đổ vỡ, phải nói trong thơ trẻ Việt Nam 1965 – 1975, Lưu Quang Vũ là nhà thơ đã để lại nhiều nhất những cung âm dự cảm, lo âu, phấp phỏng về những điều quá mỏng manh trong hành trình con người kiếm tìm hạnh phúc. Hay có thể khẳng định giọng điệu dự cảm, tiên liệu chính là âm bản của thăng trầm trong cuộc đời người nghệ sĩ đa đoan này. Đến với thế giới nghệ thuật thơ Lưu Quang Vũ, người đọc hẳn đến được vùng cảm xúc không bình lặng với giọng thảng thốt trong dự cảm chia xa, giọng hối hả trước bao dự định còn dang dở: Riêng lòng anh anh không quên đâu/ Chỉ sợ trời mưa đổi mùa theo gió/ Cây lá với người kia thay đổi cả/ Em không còn màu mắt xưa (Anh chỉ sợ rồi trời sẽ mưa). Trong thế giới nghệ thuật thơ trẻ, thiên nhiên là đối tượng đồng hành với nhiều ẩn ức của con người và đó cũng là khoảng không gian thành hình những dự cảm của người nghệ sĩ. Hồn thơ Nguyễn Duy cũng từng khắc khoải trước cái phẳng lặng của ngày mai, giọng thơ thảng thốt trong nỗi niềm khát gió: Trái đất sẽ ra sao khi một ngày nào kia không còn gió nữa (Gửi từ vùng gió Phan Rang). Sống trong hiện thực máu và súng luôn là nỗi đe doạ kinh hoàng, những tưởng các nhà thơ trẻ trong lòng đô thị miền Nam chỉ có thể trải mình trong cái tôi căm hận, oán thán; những tưởng xâm chiếm hết hồn thơ họ chỉ là những niềm đau chung đã ngấm lịm vào da thịt. Vậy mà trong tiếng lòng chung đó, người nghệ sĩ vẫn dành một góc nhỏ để trải nghiệm về trạng thái cô độc của hiện tại và xót xa hơn là tiên liệu về một khoảng thời gian định mệnh. Giọng thơ chùng xuống, đẫm buồn song cái tôi vẫn gắng gượng trong sắc giọng da diết nhớ. Giọng giằng xé của cái tôi cô độc như lạc đi trong nước mắt của chia li: Bây giờ những buổi chiều còn lại một mình/ em có biết chăng đời tôi rồi sẽ có một sớm mai nào/ ra đi không ngày trở lại/ tôi vẫn nhớ em khi đêm tối về/ âm thầm GIỌNG ĐIỆU CỦA CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ TRẺ VIỆT NAM 1965 - 1975 khóc trong chiếu chăn/ những giọt lệ vàng thánh thiện như nước mắt chim khuyên (Những buổi chiều một mình - Thái Ngọc San). Lê Văn Ngăn - cây bút của phong trào học sinh sinh viên thành thị miền Nam - cũng mang sắc giọng dự cảm chia xa trong tình yêu. Trong hồn thơ của một người đang rơi vào tuyệt vọng, mây trời u ám là không gian của mòn mỏi đợi chờ: Anh sẽ lui về thành thị cũ/ soi mắt em trong tấm gương mờ/ ngó qua mái ngói mây trời đục/ biết đến đêm này khuya có mưa (Bên hồ Thuỷ Ngữ). *** Tương ứng với từng biểu hiện của cái tôi trữ tình, các nhà thơ trẻ lựa chọn những hình thức biểu hiện phù hợp với thế giới quan, nhân sinh quan và phong cách sáng tạo của tác giả và thời đại. Sự lựa chọn thể loại, sự sáng tạo nên những hiệu ứng thẩm mĩ khá dụng công cho chất liệu ngôn ngữ và đặc biệt là sự thể hiện nhiều cung bậc giọng điệu đã đưa thế hệ thơ trẻ khám phá sâu vào bản chất của cái tôi trữ tình giai đoạn này. Thực tế chiến trường ác liệt và không khí chiến đấu của những năm chống Mĩ, cứu nước đã tạo điều kiện cho thơ trẻ bắt nhịp với cảm hứng dân tộc. Trong dàn hoà ca ấy, thơ trẻ đã xuất hiện nhiều nhiều sắc giọng đa dạng, hợp thành giọng điệu đặc trưng của nền thơ 1965 – 1975. Trong đó, sắc giọng nghiệm suy, chất vấn, dự cảm, âu lo đã tạo nên dấu ấn của một số phong cách thơ và có phần đậm hơn trong sáng tác của các nhà thơ trẻ thành thị miền Nam. Song dù là giọng ngợi ca hào sảng, giọng tin yêu đằm thắm, giọng suy tưởng trầm buồn hay giọng tiên cảm xót xa thì bật lên trên hết vẫn là chất đắm đuối trong những hồn thơ mặn mà với hiện thực đời sống. Giọng điệu trong thơ trẻ 1965 – 1975 góp phần khắc sâu hơn sự đa diện của cái tôi trữ tình, vốn được xem là biểu hiện sắc nét của chân dung tinh thần thơ trẻ Việt Nam giai đoạn này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Tuấn Anh (1997), Nửa thế kỉ thơ Việt Nam 1945-1995 (Nhìn từ phương diện sự vận động của cái tôi trữ tình), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 2. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội. 3. Hà Minh Đức (1998), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 4. Roman Jakobson (2001), “Chủ âm”, Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 5. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
File đính kèm:
- giong_dieu_cua_cai_toi_tru_tinh_trong_tho_tre_viet_nam_1965.pdf