Đo lường tính so sánh được của thông tin báo cáo tài chính
Tính hữu ích của thông tin tài chính được nâng cao nếu thông tin đó có thể so sánh được. Sự khác biệt giữa các phương pháp kế toán được sử dụng có thể có một tác động tiêu cực đến khả năng so sánh của báo cáo tài chính. Do đó, có nhiều nghiên cứu tìm kiếm cách thức đo lường tính so sánh được nhằm tăng tính hữu ích của thông tin báo cáo tài chính được cung cấp đến người sử dụng. Mục đích của bài viết đưa ra các chỉ số thường được các nhà nghiên cứu sử dụng để đo lường. Bài viết sử dụng các chỉ số được chấp nhận chung (C, H, I) và những ví dụ minh họa, quan điểm khác nhau của nhiều tác giả đưa ra nhằm chứng minh sự phổ quát của chỉ số chung. Mặc dù có nhiều tranh cãi của thống kê các chỉ số sử dụng cho mục đích đo lường nhưng các chỉ số là cần thiết để phát triển một chỉ số được chấp nhận rộng rãi giúp cho quá trình hài hòa, hội tụ của hệ thống chuẩn mực kế toán.
n quốc tế, (4) để xác định các khoản mục có vấn đề trong báo cáo tài chính (đối tượng với mức độ so sánh thấp) và (5) các tổ chức đang đối phó với mức độ so sánh của báo cáo tài chính có thể sử dụng phương pháp đo lường để thiết lập các mục tiêu liên quan đến mong muốn mức độ so sánh cho một khoản mục trong báo cáo tài chính. Để đạt được mức độ so sánh cần so sánh với các chuẩn mực kế toán (Tas, 1988). Tay và Parker (1992) đang thực hiện các phương pháp thay thế để đo lường sự so sánh mặc dù họ đồng ý với quan điểm của Tas(1988). Hoạt động so sánh tập trung vào việc so sánh các kết quả từ các nước khác nhau và các nghiên cứu đo lường tập trung thực hiện những báo cáo về mức độ so sánh không hoàn toàn, so sánh hoàn toàn. Mức độ so sánh có thể được định lượng bằng cách sử dụng chỉ số tập trung. So sánh mức độ so sánh trong các giai đoạn khác nhau sẽ cho thấy sự so sánh và không so sánh. Mức độ so sánh có thể được đo lường bằng các phương pháp thay thế như thử nghiệm thống kê phi tham số, đo lường tập trung, đo dữ liệu chọn mẫu, phương sai của logarit, chỉ số Hannah-Kay, kiểm định t-test. Tas(1992) bác bỏ những nỗ lực của Tay và Parker (1992) đã nói rằng các chỉ số H được tính theo bình phương các tần số tương đối thay thế phương pháp đo lường cho một loại giao dịch. Mức độ tập trung của các đơn vị kinh doanh được đo bằng chỉ số H xung quanh một hoặc một số phương pháp thay thế dẫn đến mức độ so sánh của chỉ số H ngày càng tăng. Tay và Parker dựa theo quan điểm của họ trên thực tế về chỉ số H là một chỉ số đo mức độ tập trung đã được thực hiện qua các thử nghiệm không quan trọng đồng nghĩa với những thay đổi (thống kê) không quan trọng hoặc có thay đổi quan trọng trong giá trị của chỉ số. Tiếc là, Tay và Parker không thảo luận về phương pháp thực tế đo lường sự so sánh của chỉ số. Chỉ số C NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 39Số 115 - tháng 5/2017 không phải là chỉ số tập trung, nhưng tỷ lệ được tính bằng thương số của số lượng các cặp so sánh được của báo cáo tài chính và tổng số các cặp của các báo cáo tài chính. Điều này xác nhận không tồn tại các vấn đề trong việc áp dụng, các cuộc thử nghiệm thống kê thông thường có ý nghĩa. Ưu điểm của chỉ số C là: (1) sự tham gia của việc đo lường mức độ so sánh không hoàn toàn có ảnh hưởng đến nhiều báo cáo và công bố thông tin bổ sung trong các thuyết minh báo cáo tài chính cho phép người dùng khác nhau hiểu được báo cáo tài chính, (2) sự biến động của chỉ số C cho thấy tầm quan trọng của các thử nghiệm. Tay và Parker (1992) đã không trình bày và nghĩ ra một phương pháp khác. Các phương pháp này được mô tả khá phức tạp và để lại một số câu hỏi chưa được trả lời, chẳng hạn như tầm quan trọng của các thử nghiệm, đo lường mức độ tập trung và làm thế nào để áp dụng phương pháp tập trung trong việc phát hiện vấn đề. Tầm quan trọng của các thử nghiệm không có nghĩa là kiểm tra sự quan trọng của biến động mức độ so sánh, nhưng tập trung vào mức độ quan trọng của sự so sánh. Tầm quan trọng của sự biến động mức độ so sánh chưa được thử nghiệm một cách phù hợp vì các phương pháp đo lường được đưa ra có nhược điểm nhất định như chỉ số H. Nhược điểm nữa của phương pháp Tay & Parker là không thể ảnh hưởng đến nhiều báo cáo hoặc bổ sung thông tin trong các thuyết minh để đo lường sự so sánh không hoàn toàn từ một báo cáo tài chính được lập chỉ bằng một phương pháp thay thế của phép đo lường. Có thể kết luận rằng để đo lường mức độ so sánh không hoàn toàn của các chỉ số C thì phương pháp của Tay và Parker chắc chắn không phải là tốt nhất. Tay và Parker (1992) nhận xét tư duy của Tas (1992) như sau: vấn đề chung liên quan đến việc sử dụng mức độ tập trung để định lượng sự so sánh bắt nguồn từ tiềm ẩn của các doanh nghiệp (c) về một hoặc nhiều hơn các phương pháp lựa chọn thay thế có sẵn trái ngược với tổng số (n) phương pháp thay thế. So sánh tăng lên khi c tăng hoặc giảm khi n tăng. Tuy nhiên, rất khó để dự đoán cách đo sự hòa hợp phản ứng khi biến đổi (c,n) cùng lúc theo nhiều hướng khác nhau. Vấn đề trên có thể được khắc phục bằng cách đo lường tập trung như chỉ số H và đo lường entropy (đo sự bất định trong cấu trúc của hệ thống(E)). áp dụng phương pháp entropy là không phù hợp vì nó gần như là không thể, lấy mẫu để thử nghiệm, tính xác suất của việc không sử dụng một trong các phương pháp kế toán có sẵn và giá trị tương đối của việc đo lường entropy là không phù hợp với các giá trị tuyệt đối. Với điều này có thể kết luận rằng chỉ số H là biện pháp đáng tin cậy hơn trong việc đo lường mức độ so sánh. Vấn đề chung với các giá trị của chỉ số C là đánh giá những thay đổi chỉ số trọng yếu của sự so sánh với những thay đổi trong công bố thông tin đó xuất hiện cùng một lúc. 5. Minh họa đo lường mức độ so sánh Nghiên cứu của Hermann và Thomas (1995) cố gắng để xác định mức độ so sánh của kế toán trong Liên minh châu Âu (EU27) bằng cách xem xét thực tiễn sự đo lường nhất định trong khoảng thời gian từ năm 1992 đến năm 1993 cho các báo cáo hàng năm của tám quốc gia thành viên EU (Bỉ, Đan Mạch, Pháp, Đức, Ireland, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Vương quốc Anh). Sự so sánh đã được thử nghiệm bằng cách sử dụng thử nghiệm chia bình phương và đo bằng chỉ số “I”. Kiểm định t-test xem xét sự tương đương của các phương pháp kế toán đối với các nước này, trong khi chỉ số đo mức độ tập trung xoay quanh các phương pháp đo lường kế toán riêng biệt được lựa chọn để thử nghiệm. Bảng 5 cho thấy các kết quả nghiên cứu của Hermann và Thomas. Mức độ tuân thủ cao nhất là trong lĩnh vực giao dịch ngoại tệ ở thị trường trong nước và xác định giá trị hàng tồn kho. Bảng 5. Tóm tắt các chỉ số và kiểm định chi bình phương. Chỉ số I kiểm định T-test Bảng cân đối kế toán 0,9040 7,22 Giao dịch ngoại tệ 0,8494 6,88 Xác định giá trị hàng tồn kho 0,7943 17,89 Báo cáo thu nhập 0,6433 54,39 Phương pháp khấu hao 0,6245 134,82 NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN40 Số 115 - tháng 5/2017 6. kết luận Mục đích của bài viết này là để hỗ trợ các nhà nghiên cứu trong việc lựa chọn phương pháp thích hợp nhất để đo lường khả năng so sánh của báo cáo tài chính. Bài viết chỉ đề cập việc sử dụng các chỉ số để đo lường tính so sánh được. Người sử dụng các chỉ số có xu hướng thích đồng nhất và cho rằng việc so sánh tối đa tồn tại khi tất cả các công ty sử dụng cùng phương pháp kế toán. Ngoài ra, còn có thể sử dụng mô hình thống kê. Các mô hình thống kê thích sự linh hoạt và cho rằng việc so sánh tối đa tồn tại khi các công ty có thể sử dụng các phương pháp kế toán thích hợp nhất bất kể quốc gia nào. Việc lựa chọn phương pháp tùy thuộc vào cách tiếp cận khái niệm tính so sánh được. Dựa trên các yêu cầu này, các phương pháp thích hợp nhất sau đó có thể được lựa chọn. Bất kể phương pháp được lựa chọn, nghiên cứu thêm là cần thiết để đo lường khả năng so sánh các báo cáo tài chính để kết luận rằng các báo cáo tài chính có thể so sánh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Aisbitt (2001), Measurement of harmony of financial reporting within and between countries: the case of the Nordic countries, European Accounting Review, Volume 10, Issue 1, pp. 51 – 72. 2. Archer, S., Delvaille, P., McLeay, S., (1995), The Measurement of Harmonisation and the Comparability of Financial Statement Items: Within-Country and Between-Country Effects, Accounting & Business Research, 25(98), pp. 67-80. 3. Baker and Barbu, (2007), Trends in research on international accounting harmonization, The International Journal of Accounting, Volume 42, Issue 3. 4. Belkaoui, A. (2004), Accounting Theory, 5th ed., p.598, Thomson. 5. Emenyonu, E. N., Gray, S. J., (1992), EC accounting harmonization, an empirical study of measurement practices in France, Germany and UK, Accounting and Business Research, 23(89), pp. 49–58. 6. Fontes, A., Rodrigues, L. L., Craig, R., (2005), Measuring convergence of National Accounting Standards with International Financial Reporting Standards, Accounting Forum, Volume 29, Issue 4, pp. 415-436. 7. Herrmann and Thomas, (1995), Harmonisation of Accounting Measurement Practices in the EuropeanCommunity, Accounting&Business Research, 25(100): 253-265. p.264. 8. Mustata, R. V., Matis, D., (2007), Measurement of need for harmonization between national accounting standards and international financial reporting standards, Journal of International Business and Economics, 3(VII), pp. 23-46. 9. Rahman, A., Perera, H., Ganeshanandam, S., (1996), Measurement of formal harmonisation in accounting: an exploratory study, Accounting and Business Research, 26(4), pp. 325–339. 10. Roberts, C., Weetman, P., Gordon, P., (2008), International corporate reporting – a comparative approach, 4th Edition, Prentice Hall 11. Sterling, R., (1969), A test of the uniformity hypothesis, Abacus, Vol. 5, No. 1, pp.37–47. 12. Tas, L. (1988), Measuring Harmonisation of Financial Reporting Practice. Accounting&Business Research, 18(70), pp. 157-169. 13. Tas, L., (1992), Evidence of EC financial reporting practice harmonization: The case of deferred taxation, European Accounting Review, 1(1), pp. 69–104. 14. Tas, L., (1995), International accounting harmonization: American hegemony or mutual recognition with benchmarks?, European Accounting Review, 4(2), pp. 255–260. 15. Tay, J. S. W., Parker, R. H., (1990), Measuring international harmonization and standardization, Abacus,26, pp. 71–88. 16. Walton, P., Haller, A., Raffournier, B., (2003), International Accounting, 2nd Edition, Cengage LearningEMEA. Chi phí nghiên cứu và phát triển 0,4105 38,76 Đánh giá lại tài sản cố định 0,2852 93,34 Lợi thế thương mại 0,2457 124,90 Phương pháp tính giá hàng tồn kho 0,2292 71,88 Nguồn: Herrmann and Thomas (1995)
File đính kèm:
- do_luong_tinh_so_sanh_duoc_cua_thong_tin_bao_cao_tai_chinh.pdf