Động cơ và cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận thông qua các thủ thuật kế toán

Để quản trị doanh nghiệp hiệu quả việc nhận diện và hiểu rõ cách thức “phù phép” thông tin báo cáo tài chính là rất cần thiết. Nhất là khi có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý thì vấn đề này càng cấp thiết hơn bao giờ hết. Bài viết nhằm mục đích xác định động cơ và các cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận phổ biến cũng như chỉ ra các điểm cần lưu ý khi xem các thông tin báo cáo tài chính. Thông qua đó, ban quản trị của doanh nghiệp có thể đưa ra các biện pháp cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

pdf8 trang | Chuyên mục: Kiểm Toán Căn Bản | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 248 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Động cơ và cách thức thực hiện hành vi quản trị lợi nhuận thông qua các thủ thuật kế toán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ông thu hồi được. Theo 
chuẩn mực kế toán, khoản mục nợ phải thu cần 
được trình bày trên BCTC theo giá trị thuần có 
thể thực hiện được. Khi đó nhà quản lý cần ước 
tính các khoản nợ không thể thu hồi được để lập 
dự phòng. Mức trích lập có thể là 30%, 50%, 70%, 
100% tùy theo tuổi nợ quá hạn của các khoản nợ. 
Thông thường phương pháp lập dự phòng nợ phải 
thu khó đòi đòi hỏi nhiều xét đoán của nhà quản 
lý, do đó tạo cơ hội cho hành vi quản trị thu nhập.
- Ước tính khoản giá trị hàng tồn kho bị giảm 
giá để lập dự phòng: Khi giá trị thuần có thể thực 
hiện được của hàng tồn kho thấp hơn so với giá 
gốc thì DN cần lập dự phòng giảm giá hàng tồn 
kho (chuẩn mực số 02 về hàng tồn kho). Ngược lại, 
khi giá trị thuần của hàng tồn kho được phục hồi 
lại thì DN phải hoàn nhập dự phòng đã trích trước 
đó. Việc lập chi phí dự phòng giảm giá hàng tồn 
kho là hợp pháp theo pháp luật Việt Nam. Vì vậy, 
nhà quản lý có thể sử dụng thủ thuật CJR để điều 
chỉnh lợi nhuận trong kỳ. Trong kỳ kế toán hiện tại 
nhà quản lý lập dự phòng hàng tồn kho nhiều hơn 
hoặc thấp hơn mức thực tế cần lập để điều chỉnh 
lợi nhuận. Trong những kỳ sau khoản dự phòng đó 
được hoàn nhập khi hàng tồn kho được bán hoặc 
có bằng chứng về sự phục hồi của giá trị thuần có 
thể thực hiện được. 
Sở dĩ cần phân biệt quản trị lợi nhuận thông 
qua lựa chọn chính sách kế toán và quản trị lợi 
nhuận thông qua thực hiện các ước tính kế toán 
là vì điều này sẽ giúp phân biệt được khả năng vận 
dụng hai hình thức trên để thực hiện hành vi quản 
trị lợi nhuận. Khi nhà quản lý lựa chọn để áp dụng 
một chính sách kế toán hay một phương pháp kế 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 53Số 118 - tháng 8/2017
toán cụ thể, nguyên tắc nhất quán yêu cầu DN phải 
nhất quán chính sách đó trong nhiều kỳ kế toán 
khác nhau, nếu có thay đổi giữa hai kỳ thì cần phải 
có thuyết minh sự thay đổi chính sách kế toán và 
mức độ ảnh hưởng đến sự thay đổi này đến lợi 
nhuận trên BCTC. Do đó, việc áp dụng lựa chọn 
một chính sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận 
thường chỉ có thể áp dụng ở một kỳ kế toán nhất 
định. Trong khi việc thực hiện ước tính kế toán ta 
thấy có thể chia thành hai loại: ước tính một lần và 
ước tính mỗi kỳ. Các ước tính thực hiện một lần 
thì cũng có thể được sử dụng để thực hiện hành 
vi điều chỉnh lợi nhuận như đối với việc lựa chọn 
chính sách kế toán nhưng những ước tính thực 
hiện mỗi kỳ thì có thể được vận dụng vào mỗi kỳ 
và đây là công cụ để nhà quản lý sử dụng thường 
xuyên hành vi điều chỉnh lợi nhuận. 
* Quản trị lợi nhuận thông qua quyết định 
quản lý về thực hiện nghiệp vụ kinh tế
- Chính sách quyết định về việc thực hiện sản 
xuất, tiêu thụ sản phẩm: Nhà quản lý có thể quyết 
định sản xuất hoặc thay đổi chính sách bán hàng 
nhằm đạt được mức lợi nhuận mục tiêu. Ví dụ khi 
DN muốn tăng lợi nhuận, nhà quản lý sẽ quyết 
định tăng sản xuất, khi đó định phí cố định sẽ 
được phân bổ cho nhiều sản phẩm hơn nên định 
phí trên mỗi đơn vị sản phẩm giảm. Khi mức độ 
tăng lên của định phí không bị bù trừ bởi chi phí 
biên thì tổng chi phí của một đơn vị sản phẩm giảm 
xuống. Từ đó giá thành sản phẩm giảm dẫn đến giá 
vốn hàng bán giảm và lãi gộp cao hơn. Nhưng khi 
DN tăng sản xuất sẽ làm giảm dòng tiền hoạt động 
với mức doanh thu không đổi. Hoặc đối với chính 
sách bán hàng, khi NQT muốn đạt mức lợi nhuận 
mục tiêu để nhận các khoản lợi ích cá nhân thì họ 
có thể đưa ra chính sách giảm giá, khuyến mãi hoặc 
nới lỏng thời gian thanh toán của khách hàng. Khi 
đó doanh thu tạm thời sẽ tăng nhưng điều này sẽ 
không còn khi DN trở lại mức giá hoặc chính sách 
như cũ. Việc giảm giá và nới lỏng chính sách bán 
hàng sẽ làm giảm dòng tiền hoạt động của kỳ kế 
toán hiện tại.
- Chính sách về thực hiện nghiệp vụ thanh lý tài 
sản dài hạn: Nếu lợi nhuận trong kỳ đạt thấp DN 
cũng có thể quyết định nhượng bán tài sản trong 
kỳ để điều chỉnh lợi nhuận. NQT có thể chọn thời 
điểm thanh lý tài sản, nếu việc thanh lý tài sản cố 
định dẫn đến lợi nhuận bị giảm, DN có thể quyết 
định thực hiện kỳ này để giảm lợi nhuận hoặc đẩy 
kỳ sau để làm giữ mức lợi nhuận đạt được trong kỳ. 
Thông thường các DN có lợi nhuận giảm sẽ có thu 
nhập từ thanh lý tài sản cố định nhiều hơn so với 
các DN có lợi nhuận tăng, đây là dấu hiệu của hành 
vi quản trị lợi nhuận. 
- Quyết định về việc thực hiện các khoản chi phí: 
Nhà quản lý có thể điều chỉnh chi phí thông qua 
việc quyết định thực hiện quyết định thực hiện 
các khoản chi phí như chi phí quảng cáo, chi phí 
nghiên cứu và phát triển, chi phí sửa chữa tài sản 
cố định.
- Quyết định về đầu tư dài hạn: Chuẩn mực kế 
toán phân loại khoản đầu tư vào một công ty khác 
dựa trên mức độ ảnh hưởng của nhà đầu tư đối với 
đơn vị nhận đầu tư. Ví dụ như đầu tư vào công ty 
con (nếu như nhà đầu tư nắm giữ quyền kiểm soát, 
thông thường nắm giữ trên 50% tỷ lệ lợi ích trong 
đơn vị nhận đầu tư), đầu tư vào công ty liên kết, 
đầu tư liên doanh đồng kiểm soát, đầu tư khác
Khi đó nhà quản lý có cơ hội để thực hiện chiến 
lược bán các khoản đầu tư có lãi hoặc giữ lại các 
khoản đầu tư lỗ để đẩy kết quả kinh doanh của kỳ 
hiện tại. Hoặc nhà quản lý sẽ làm ngược lại nếu 
muốn điều chỉnh giảm lợi nhuận.
* Quản trị lợi nhuận thông qua hành vi vận 
dụng sai các quy định kế toán
Đây là hành vi cố tình làm sai các quy định kế 
toán để điều chỉnh lợi nhuận, bao gồm cả hành vi 
gian lận. Các hành vi này thông thường là các đối 
tượng chú ý của kiểm toán, do vậy các hành vi này 
thường được phát hiện bởi kiểm toán viên khi kiểm 
toán BCTC, như cố tình ghi nhận tài sản sai niên 
độ, che giấu các khoản công nợ và chi phí Ví dụ 
như số liệu kế toán của Tập đoàn Công nghiệp Tàu 
thủy Vinashin đã được Công ty Kiểm toán KPMG 
phát hiện ra rất nhiều các sai phạm làm lệch lạc đến 
kết quả lợi nhuận kinh doanh. Cụ thể, như Vinashin 
đã che giấu các khoản lỗ thông qua các biện pháp 
kế toán. Mặc dù, kết quả BCTC của Vinashin cho 
TÖØ LYÙ LUAÄN ÑEÁN THÖÏC TIEÃN
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN54 Số 118 - tháng 8/2017
thấy năm 2009 Tập đoàn này lỗ 1.682,5 tỷ đồng 
nhưng số lỗ thực tế là 4.954 tỷ đồng, tăng lỗ thêm 
3.302 tỷ so với số liệu trước kiểm toán. Trong đó, 
Tập đoàn Vinashin đã sử dụng các hành vi để quản 
trị lợi nhuận, giấu mức lỗ thực như: chưa phân bổ 
hết chi phí đối với những hợp đồng đóng tàu đã 
hoàn thành, chưa ghi nhận chi phí phải trả cho các 
công ty quản lý tàu, chưa trích khấu hao tài sản cố 
định đối với những tài sản đã đưa vào sử dụng theo 
quy định, chưa phân bổ các khoản trả trước dài 
hạn và rất nhiều các sai phạm khác. 
5. kết luận 
Chất lượng thông tin trên BCTC của các công ty 
đang là một vấn đề được các nhà quản lý, nhà đầu 
tư quan tâm. Một trong những nguyên nhân quan 
trọng ảnh hưởng đến chất lượng BCTC của các 
công ty niêm yết là hành vi quản trị lợi nhuận của 
nhà quản lý của các công ty. Do đó, làm rõ động cơ 
và cách thức thực hiện hành vi này là rất cần thiết. 
Điều này cung cấp cho các cổ đông, ban quản trị 
một số kiến thức lẫn lưu ý trong quá trình tái cấu 
trúc doanh nghiệp được hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ayers, B. C. 1998. Deferred tax 
accounting under SFAS No. 109: An 
empirical investigation of its incremental 
value-relevance relative to APB No. 11. The 
Accounting Review 73 (2): 195–212;
2. Boynton, C. E., Dobbins, P. S., & Plesko, G. 
A. (1992). Earnings management and the 
corporate alternative minimum tax. Journal 
of Accounting Research, 131-153;
3. Dechow P. M. Sloan R.G. Sweeney A. P. 
1995, Detecting earnings management. 
The Accounting Review, Vol. 70, No 2, pp. 
193-225;
4. Guidry, F., Leone, A. J., & Rock, S. (1999). 
Earnings-based bonus plans and earnings 
management by business-unit managers. 
Journal of accounting and economics, 26(1), 
113-142;
5. Giang Thanh.2011, Lợi nhuận ảo lộ diện trong 
BCTC soát xét.Tạp chí Đầu tư Chứng khoán;
6. Han, J. C., & Wang, S. W. (1998). Political 
costs and earnings management of oil 
companies during the 1990 Persian Gulf 
crisis. Accounting Review, 103-117;
7. Healy, P. M., & Wahlen, J. M. (1999). A review 
of the earnings management literature 
and its implications for standard setting. 
Accounting horizons, 13(4), 365-383;
8. Huỳnh Thị Vân, 2012, Nghiên cứu hành vi 
điều chỉnh lợi nhuận ở các công ty cổ phần 
trong năm đầu niêm yết trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam. Luận văn thạc sĩ. 
Đại học Đà Nẵng;
9. Jones J.,1991, Earnings management during 
import relief Investigations. Journal 
ofAccounting Research, Vol. 29, pp. 193-228;
10. Kothari S.P. and Leone, Andrew J. and 
Wasley Charles E., 2005, Performance 
Matched Discretionary Accrual Measures. 
Journal of Accounting & Economics, Vol. 39, 
No. 1, pp163-197;
11. Miller, G. S., and D. J. Skinner. 1998. 
Determinants of the valuation allowances 
for deferred tax assets under SFAS No. 109. 
The Accounting Review 73 (2): 213–233;
12. Phạm Thị Bích Vân, 2012, Mô hình nhận 
diện điều chỉnh lợi nhuận của các doanh 
nghiệp niêm yết ở Sở Giao dịch chứng khoán 
Tp.HCM. Tạp chí Phát triển Kinh tế, số 258, 
tr.35-42;
13. Phạm Thị Bích Vân. 2012, Nghiên cứu ảnh 
hưởng của thuế TNDN đến sự lựa chọn 
chính sách kế toán của các DN trên địa bàn 
TP Đà Nẵng . Tạp chí Khoa học Công nghệ 
số 04/2012- ĐH Đà Nẵng;
14. Phạm Thị Bích Vân. 2013, Quản trị lợi 
nhuận của các DN phát hành thêm cổ phiếu 
trên sở giao dịch chứng khoán TPHCM. Tạp 
chí Ngân hàng số 18;
15. Ronen J., Yaari V., 2008, Earning 
management Emerging insights in theory, 
practices and research. Springer;
16. Scott, W. R. (1997). Financial accounting 
theory . Upper Saddle River, NJ: Prentice hall.
17. Schipper, K. (1989). Commentary on 
earnings management. Accounting horizons, 
3(4), 91-102;
18. Visvanathan, G. 1998. Deferred tax valuation 
allowances and earnings management. 
Journal of Financial Statement Analysis 3 
(4): 6–15.

File đính kèm:

  • pdfdong_co_va_cach_thuc_thuc_hien_hanh_vi_quan_tri_loi_nhuan_th.pdf
Tài liệu liên quan