Lý thuyết và thực hành thông tin kế toán để ra quyết định ngắn hạn

TÓM TẮT

Ra quyết định là việc lựa chọn từ nhiều phương án, nh̀m mục đích chọn một phương án có

tính thỏa mãn cao nhất, cả về lượng và chất. Ra quyết định là một chức năng quan trọng của nhà

quản trị. Vì nhà quản trị luôn đứng trước những vấn đề cần phải ra quyết định.

Các thông tin để ra quyết định căn cứ chủ yếu vào các thông tin định lượng của kế toán;

lượng giá dòng thu với dòng chi để tìm ra lợi nhuận cao nhất trong các phương án hoặc trong các

tình huống kinh doanh là những vấn đề không đơn giản, đòi hỏi người ra quyết định và lập quyết

định phải thấu hiểu rõ cơ sở lý thuyết và quá trình thực hành để ứng dụng chúng thích hợp nhất.

pdf7 trang | Chuyên mục: Kiểm Toán Căn Bản | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Lý thuyết và thực hành thông tin kế toán để ra quyết định ngắn hạn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
nhưng kết hợp chi phí cơ hội của từng 
phương án phân tích, cũng đã chỉ rõ sự lựa 
chọn tương tự như được chỉ ra trong phân tích 
so sánh nếu chấp nhận lời đề nghị làm thêm, 
vì khoản lãi 30 triệu đồng được ưa chuộn hơn 
khoản lỗ 30 triệu đồng từ phương án bán ngay.
Như trên đã nói, 170 triệu đồng chi phí 
của quá trình sản xuất áo là chi phí không 
thích hợp. Để nhấn mạnh tính không thích 
hợp của chi phí này, hãy xem xét báo cáo thu 
nhập của công ty M đối với từng phương án.
Đơn vị tính: Triệu đồng
Chỉ tiêu Vứt bỏ Bán ngay Làm thêm
Thu nhập 0 120 200
Chi phí sản xuất (170) (170) (170)
Làm thêm - - (50)
Lãi ( lỗ) (170) (50) (20)
Như vậy, việc làm thêm sẽ làm cho lỗ ít hơn, 
được chứng minh qua kết quả phân tích chênh 
lệch, đã cho thấy phương án này là phương 
án tốt nhất trong cả 3 phương án nghiên cứu. 
Khoản lỗ phải chịu khi bán ngay là 120 triệu 
đồng, ít hơn so với khi vứt bỏ số áo đó, khoản 
này phản ánh qua khoản 120 triệu đồng lợi 
nhuận chênh lệch được trình bày trong bảng 
phân tích đầu tiên là khoản lỗ 20 triệu đồng 
được báo cáo đối với việc làm thêm số áo thì 
thấp hơn 30 triệu đồng với khoản lỗ từ phương 
án bán ngay, khoản này chính là khoản 30 triệu 
đồng lợi nhuận chênh lệch mà chúng ta tìm 
được khi so sánh chúng với nhau.
2.3. Nghiên cứu trong tình huống giả định 
Sự kiện không đổi là Công ty M có trong 
tay 5.000 áo đã được sản xuất với chi phí 170 
triệu đồng. Bây giờ hãy giả sử số áo đó có thể 
bán với giá bình thường. Công ty M dự kiến 
sản xuất một số lượng áo tương tự để thỏa 
mãn nhu cầu tiêu thụ tương lai, nếu Công ty 
đã bán số áo có trong tay. Nhà quản lý sản 
xuất cho rằng chi phí sản xuất 5.000 áo đã 
tĕng lên đến 200 triệu đồng. 
Một cửa hàng bán lẻ đề nghị mua 180 
triệu đồng cho số áo của công ty hiện có trong 
tay. Công ty phải làm gì trong điều kiện này 
? Mấu chốt của quá trình phân tích là phải 
hiểu rằng, dù công ty quyết định làm cái gì 
thì công ty cũng phải có sẵn 5.000 áo để đáp 
ứng nhu cầu dự kiến trong tương lai ở mức 
giá chuẩn. (Mọi điều xảy ra sau thời điểm này 
kể cả doanh thu bình thường theo dự kiến, sẽ 
giống nhau dù công ty quyết định phải làm gì 
đối với 5.000 áo có trong tay).
Công ty có 2 phương án:
Một là, Công ty có thể cứ giữ số áo đó 
cho đến khi chúng có thể được bán với giá 
chuẩn, điều này có nghĩa là công ty chọn cách 
“không làm gì cả”. Nếu chọn cách này, công 
ty sẽ không có doanh thu và cũng không phải 
chịu bất cứ chi phí nào cả từ bây giờ cho đến 
19
Lý thuyết và thực hành...
khi số áo được xuất bán hoàn toàn cho tiêu thụ 
bình thường.
Hai là, Công ty có thể bán số áo lúc này và 
làm một số áo khác để đáp ứng cho nhu cầu tiêu 
thụ bình thường. Nếu phương án này được chọn, 
công ty nhận được 180 triệu đồng doanh thu và 
chịu một khoảng chi phí 200 triệu đồng (để sản 
xuất số áo cần thiết cho nhu cầu tiêu thụ bình 
thường), chịu lỗ 20 triệu đồng. sự lựa chọn tốt 
nhất là “ không làm gì cả”, công ty sẽ không phải 
lỗ 20 triệu đồng khi chọn phương án này. Chi phí 
cơ hội của việc chọn để bán ngay số áo bây giờ 
là 200 triệu đồng, sẽ là chi phí của việc thay thế 
chúng sau này. Đây là giá trị của chúng vì bán 
chúng bây giờ cần phải sản xuất lại với chi phí 
sản xuất là 200 triệu đồng. Chi phí cơ hội là chi 
phí thay thế trong một số trường hợp. Trong các 
trường hợp trên, chi phí cơ hội luôn luôn là giá 
bán (từ chi phí tĕng thêm để hoàn thành chúng).
3. Triển khai thông tin thích hợp và 
phân bổ chi phí 
3.1. Khai triển các thông tin thích hợp
Các nhà quản trị phải ra nhiều quyết định 
có ảnh hưởng đến những phần nhỏ của công 
ty: như một sản phẩm, một dây chuyền sản 
phẩm, một phân xưởng, thậm chí một chi tiết 
rời của sản phẩm. Thông thường, bộ phận 
(hoạt động cá thể) mà các nhà quản trị đang 
xem xét những thay đổi khả dĩ không đủ lớn 
để được báo cáo chi tiết.
 Ví dụ: Hãy xem xét một công ty sản 
xuất trang thiết bị vĕn phòng. Công ty có thể làm 
một số mẫu đối với máy đánh máy chữ, máy tính 
và máy copy, bán chúng trong một số vùng cho 
nhiều tầng lớp khách hàng khác nhau (doanh 
nghiệp, bệnh viện, cơ quan, nhà nước vv), và 
điều hành một số phân xưởng, mà trong các phân 
xưởng đó chỉ sản xuất một sản phẩm hoặc một 
dây truyền sản phẩm và các phân xưởng khác sản 
xuất một số sản phẩm khác. Các báo cáo kế toán 
bình thường không thể trình bày thông tin theo 
mẫu sản phẩm, theo vùng, theo từng khách hàng 
và theo từng phân xưởng. 
Một báo cáo kế toán hiện hành, như báo 
cáo thu nhập theo bộ phận kinh doanh (các 
nhóm hàng, các mặt hàng, các dây truyên sản 
xuất), là cĕn cứ tốt để từ đó phân tích theo 
các bộ phận sản xuất kinh doanh, vì nó làm rõ 
các chi phí có thể tránh được. Những thông tin 
trong các báo cáo kế toán đã qua chỉ được quan 
tâm khi nó dự toán được trong tương lai. Các 
nguồn thông tin khác thường quan trọng hơn; 
các chuyên viên cung cấp thông tin về nhu 
cầu nguyên liệu và yêu cầu đối với lao động 
của một sản phẩm mới, phòng tiếp thị đưa ra 
các ước tính về doanh thu tương lai của một 
sản phẩm. Như vậy, dù có sẵn một báo cáo kế 
toán chuẩn về một bộ phận mà từ đó ta có thể 
xem xét một số thay đổi, thì điều này không có 
nghĩa là báo cáo gồm những thông tin cần thiết 
cho việc ra quyết định về các thay đổi đó.
Với sự kết hợp của internet và máy tính giúp 
các nhà quản trị nắm bắt và khai triển dễ dàng 
hơn một số loại thông tin, giống như khối lượng 
của một loại sản phẩm cá biệt tiêu thụ trong mỗi 
vùng cho từng nhóm khách hàng. Nhưng máy 
tính không thể xác định được liệu một số các chi 
phí phát sinh có tránh được hay không thể. Việc 
thực hiện công việc này đòi hỏi một số lượng 
lớn công tác nghiệp vụ kế toán và mối quan hệ 
chặc chẽ giữa kế toán viên, kế toán viên kế quản 
trị với các nhà quản trị khác. 
Điểm quan trọng nhất về các quyết định 
liên quan với các bộ phận là ở chỗ, các phân 
tích sẽ khác với các quyết định. Không có bất 
cứ công thức kỳ diệu duy nhất nào để nhận 
diện chi phí và thu nhập thích hợp đối với từng 
quyết định cá biệt. Chi phí mà có thể tránh 
được và do đó có tính chênh lệch, khi xem xét 
theo góc độ này có thể có tính không thể tránh 
20
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
được, khi xem xét theo góc độ khác. Nói chung 
ở góc độ càng nhỏ thì chi phí có thể tránh được 
càng ít. Chi phí có thể tránh được của một mẫu 
máy đánh máy chữ được bán trong một vùng 
cá biệt chắc chắn bị giới hạn theo biến phí sản 
xuất của kiểu mẫu đó. Những chi phí có thể 
tránh được gắn liền với toàn bộ dây truyền của 
máy đánh máy đánh máy chữ trong cùng vùng 
đó gồm các biến phí sản xuất và có thể gồm cả 
một số chi phí bán hàng. Môt số định phí sản 
xuất cũng có thể được tiết kiệm, nhất là nếu 
các máy đánh máy chữ được bán trong vùng 
đó và được sản xuất trong một nhà máy mà 
không sản xuất các dây truyền sản phẩm khác. 
Nhưng dù vậy, quyết định này phụ thuộc vào 
các tình huống cụ thể của nhà máy đó. Khi góc 
độ nghiên cứu toàn bộ dây truyền sản xuất thì 
càng có nhiều chi phí có thể tránh được.
3.2. Phân bổ chi phí chung
Nhiệm vụ nhận diện chi phí thích hợp, cho 
một quyết định cá biệt thường rất phức tạp, mà 
kế toán thực hiện về việc phân bổ chi phí phí sản 
xuất chung vào các bộ phận. Thí dụ, các doanh 
nghiệp đều đặn phân bổ định phí sản xuất cho 
khối lượng sản phẩm, vì chúng thường được 
quy định như vậy nhằm cho mục đích kế toán 
tài chính và mục đích thuế. Vì sự phân bổ chi phí 
thường được kết hợp với các báo cáo nội bộ nó 
có vai trò như một điểm bắt đầu để ra quyết định.
Trong phần trên chúng ta đã nghiên cứu và 
đã nhấn mạnh đến các cĕn cứ để ra quyết định 
là những thông tin hướng đến tương lai. Chúng 
ta đã biết rằng định phí của một đơn vị là kết 
quả của quá trình phân bổ chi phí, không có tín 
hiệu hữu ích trong quá trình dự đoán các chi phí 
trong tương lai. Như vậy định phí tính cho một 
đơn vị không thích hợp với quá trình ra quyết 
định. Theo định nghĩa chung nhất, các chi phí 
chung có tính không thể tránh được đối với các 
bộ phận cá thể mà chúng có đặc tính chung. Sự 
phân bổ các chi phí này cho các bộ phận cá thể 
không làm thay đổi tổng số tiền phân bổ có tính 
có thể tránh được trong tương lai. Như vậy, đối 
với quá trình ra quyết định một bộ phận, các chi 
phí chung được phân bổ cho bộ phận đó không 
có tính thích hợp, các chi phí thích hợp duy nhất 
là các chi phí mà sẽ làm thay đổi (có tính chênh 
lệch) nếu một doanh nghiệp chọn một tiến trình 
hành động này thay vì một tiến trình khác.
Mặc dù có một số khẳng định mạnh mẽ 
rằng, chi phí được phân bổ có tính không thể 
tránh được, đôi khi có thể làm giảm chi phí 
chung nếu một bộ phận đủ lớn bị loại trừ. Thí 
dụ, giả sử có 20 nhân viên của phòng tiền lương 
tính lương cho sổ lương công nhân của tất cả 6 
phân xưởng của công ty. Nhưng nếu một phân 
xưởng lớn đóng cửa, phòng tiền lương có thể 
phân bổ lại công việc và nhân viên bị giảm bớt 
còn 17 hoặc 18 người, do đó làm giảm một 
phần chi phí chung. Xác định những loại thay 
đổi này của chi phí là một phần của việc phân 
tích chi phí trong quá trình xác định chi phí 
cĕn cứ theo hoạt động. Như vậy, phân tích chi 
phí cho các quyết định đòi hỏi rất nhiều sự cẩn 
trọng đến từng tình huống cụ thể.
Sự xuất hiện của các chi phí được phân bổ 
trên các báo cáo bộ phận làm phát sinh một 
vấn đề quan trọng về cung cấp thông tin trong 
phạm vi một doanh nghiệp. Hệ thống thông 
tin phải cung cấp số liệu để lập các báo cáo 
tài chính, lập các báo thuế và các mẫu báo cáo 
khác theo yêu cầu của nhà nước và nhà quản 
trị để ra các quyết định kinh doanh cần thiết. 
Hệ thống thường được thiết kế chung quanh 
các nhu cầu của kế toán tài chính và thuế, vì 
các thông tin cụ thể được yêu cầu cho các mục 
đích này được biết rõ và được cần đến thường 
xuyên. Vì hệ thống thông tin và các báo cáo 
kết quả bộ phận phục vụ một số mục đích nên 
nhà quản trị sử dụng những báo cáo này phải 

File đính kèm:

  • pdfly_thuyet_va_thuc_hanh_thong_tin_ke_toan_de_ra_quyet_dinh_ng.pdf
Tài liệu liên quan