Đặc điểm ngôn ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang
Cũng như tất cả các dân tộc anh em trên đất nước Việt Nam, người Nùng có những nét văn hóa, văn nghệ đặc sắc riêng làm nên sắc màu đa dạng cho 54 dân tộc Việt Nam.
Trong vốn văn nghệ truyền thống của dân tộc Nùng, hát lượn
chính là một trong những di sản văn hóa mà người Nùng đã
dày công xây dựng từ thời “trời làm nạn hồng thủy/ gây mưa to
nước lớn” và truyền qua các thế hệ cho đến ngày nay. Nội dung
chính của bài viết tập trung vào việc tìm hiểu đặc điểm ngôn
ngữ trong các bài hát lượn của người Nùng ở phương diện hình
thức và ngữ nghĩa. Tư liệu của bài viết là 17 bài hát lượn của
người Nùng do cộng tác viên Sùng Seo Chỉ và Sùng Già Sang
ở huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang cung cấp. Các tư liệu này đã
được nhóm tác giả ghi âm, phiên âm, dịch nghĩa, dịch văn học
và văn bản hóa để phục vụ cho việc nghiên cứu.
g 8: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ thời gian trong các bài hát lượn STT Từ ngữ Nghĩa Lượt xuất hiện Tỉ lệ (%) 1 chấu sớm 2 15,5 2 đân chỉnh mùa xuân 1 7,6 3 đân nghì tháng 2 1 7,6 4 đân sham tháng 3 1 7,6 5 đân shi tháng 4 1 7,6 6 shai muộn 1 7,6 7 rọt từ khi 1 7,6 8 năm thăng chư đến bây giờ 1 7,6 9 ship sham văn 13 ngày 1 7,6 10 ship ha văn 15 ngày 1 7,6 11 khụp này bây giờ 1 7,6 12 miu này mùa này 1 7,6 Tổng 13 100 Qua bảng thống kê trên, có thể thấy trong 17 bài hát lượn, nội dung phản ánh thời gian là 12 đơn vị từ ngữ với số lượt xuất hiện là 13. Các từ ngữ chỉ thời gian đều xuất hiện với tần số thấp, tuy nhiên nội dung phản ánh của trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ thời gian trong các bài hát lượn khá phong phú. Mỗi từ ngữ đều phản ánh được một quan niệm, một biểu tượng riêng về thời gian trong văn hóa của người Nùng. Thời gian được người Nùng quan niệm tương đối rõ ràng và nó cũng được đưa vào các bài hát lượn với biểu tượng tiêu biểu là biểu tượng đân chỉnh (mùa xuân). Trong tâm thức của người Nùng, đân chỉnh (mùa xuân) là mùa đẹp nhất, mùa được mong đợi nhất. Đối với người Nùng thì đây là mùa được nghỉ ngơi, vui chơi sau một năm vất vả. Đó là mùa mà con người tổ chức ăn uống, vui chơi, là ngày Tết chung của cả cộng đồng. Tết cổ truyền của người Nùng cũng có những nét riêng biệt, với những món ăn hay bánh trái và các nghi lễ đón tết đều khác với dân tộc khác. 2.3.3. Đặc điểm của trường từ vựng – ngữ nghĩa chỉ trạng thái tâm sinh lý Trong hát lượn các từ ngữ liên quan đến trường từ vựng ngữ nghĩa tâm sinh lí tương đối phong phú. Kết quả thống kê thu được như sau: VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 129Volume 8, Issue 2 Bảng 9: Trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trạng thái tâm sinh lí trong các bài hát lượn STT Từ ngữ Nghĩa Lượt xuất hiện Tỉ lệ (%) 1 shai rỉ trái tim 1 11,1 2 bẳn vui 1 11,1 3 nê ngủ 1 11,1 4 lỉ ving vui vẻ 1 11,1 5 nừ nhớ 1 11,1 6 dai lừa 1 11,1 7 tàu map phản bội 1 11,1 8 bộ shin không tin 1 11,1 9 pàu vội 1 11,2 Tổng 9 100% Qua bảng thống kê, có thể thấy xuất hiện nhiều từ ngữ thuộc trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trạng thái tâm sinh lý. Các từ ngữ này cũng gắn với một số biểu tượng để con người gửi gắm tâm tư, tình cảm, phổ biến hơn cả có lẽ là biểu tượng shai ri (trái tim). Từ xa xưa, người Nùng vẫn tin rằng trái tim là trung tâm của mọi cảm xúc. Vì vậy, trái tim luôn được người Nùng quan niệm đó là biểu tượng của tình yêu. Trải qua thời gian, đến nay, trái tim vẫn là biểu tượng của một tình yêu vĩnh hằng. Do quan niệm của người Nùng như vậy nên trong các bài lượn về tình yêu luôn xuất hiện hình ảnh trái tim, để người Nùng chứng tỏ sự chân thành của tình cảm và mong ước có được một tình yêu viễn mãn, tràn đầy hạnh phúc. Trái tim còn lại biểu tượng cho sự nhiệt huyết của con người trong công việc trong cuộc sống hay tình thương giữa con người với con người. Như vậy, có thể thấy, xét về mặt ngữ nghĩa, các từ ngữ được dùng trong hát lượn có thể được phân biệt thành nhiều trường từ vựng - ngữ nghĩa phong phú, đa dạng và phản ánh một phần đời sống văn hóa tinh thần cũng như đời sống sinh hoạt của người Nùng, phản ánh tư duy nhận thức của họ. Đó là trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ sự vật (con vật, thực vật, thiên nhiên); trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ không gian - thời gian; trường từ vựng - ngữ nghĩa chỉ trạng thái tâm sinh lý Đó đều là các từ ngữ quen thuộc trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người Nùng, phản ánh nhu cầu giao tiếp và bộc lộ tâm tư tình cảm, mong muốn gắn kết nhau trong lao động cũng như trong mọi hoạt động của đời sống của đồng bào dân tộc Nùng. 3. Kết luận Nếu như ngôn từ là những đường nét, họa tiết hoa văn đủ màu sắc tô điểm cho chiếc cầu hát lượn nối liền cõi thực với cõi thiêng trong đời sống tâm linh của người Nùng thì có thể thấy hát lượn Nùng giống như một bảo tàng thu nhỏ lưu giữ những giá trị văn hóa bền vững, đặc biệt là đối với ngôn ngữ Nùng. Kết quả thu thập tư liệu và nghiên cứu của bài viết cũng có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc làm tư liệu/ ngữ liệu cho việc biên soạn chương trình, tài liệu dạy học môn Tiếng dân tộc và Văn học địa phương trong chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ được thực hiện từ năm 2020. Hát lượn Nùng tuân thủ theo mô thức nhất định. Sự góp mặt của các yếu tố cốt truyện, sự lặp lại, làm cho nhiều bài hát mang tính “liền mạch”, có vần điệu, đồng thời giống như câu chuyện kể hấp dẫn, li kì, đã góp phần làm nên tính trình tự của các tình tiết trong khi hát. Các kết cấu đặc trưng trong hát lượn Nùng là: kết cấu một chiều, kết cấu đối đáp, kết cấu trùng điệp và kết cấu trung gian được sử dụng linh hoạt (trong đó kết cấu một chiều là phổ biến hơn cả). Điều này đã khiến cho hát lượn mang dáng vẻ một loại hình nghệ thuật mang tính nguyên hợp và thiên hướng kể lể. Trong hát lượn Nùng, các tác giả dân gian đã linh hoạt dùng cách lặp từ, lặp ngữ và lặp cấu trúc để tạo nên vần điệu và sự gắn kết trong lời ca. Số tiếng của các câu ca của bài ca phổ biến hơn cả là thể 5 chữ. Do đó, cách gieo vần và cách hợp vần cũng vô cùng đa dạng và tương đối phức tạp, do có những bài thuộc thể này là sự kết hợp giữa hát và tụng niệm, có bài là những vần thơ, bởi thế cách gieo vần khá linh hoạt. Xét về mặt ngữ nghĩa, các từ ngữ được dùng trong hát lượn có thể được phân biệt thành nhiều nhóm từ vựng, phản ánh một phần đời sống văn hóa tinh thần cũng như đời sống sinh hoạt của dân tộc Nùng. Đó là các từ ngữ chỉ sự vật hiện tượng tự nhiên (con vật, thực vật, thiên nhiên); đồ vật; không gian thời gian; con người Các từ ngữ chỉ động vật và thực vật trong hát lượn Nùng đã phản ánh môi trường sống của người Nùng, một miền rừng núi hoang sơ, trù phú với đặc trưng nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp. Các từ ngữ chỉ đồ vật trong hát lượn đã tái hiện cuộc sống sinh hoạt của người Nùng trong quá khứ với tên gọi những đồ vật truyền thống, mang chất riêng của người Nùng, có thể xem như một bảo tàng dân tộc thu nhỏ đặc biệt có giá trị, cung cấp cho thế hệ sau muốn tìm hiểu về người Nùng, về phong tục tập quán của một dân tộc có nền văn hóa đặc sắc và độc đáo. Các từ ngữ chỉ trạng thái tâm sinh lý và con người đã phần nào phản ánh được thế giới tâm hồn, tình cảm phong phú và một số đặc thù trong hát lượn Nùng, đồng thời cũng cho thấy một thế giới tràn ngập sắc màu, với nhiều cung bậc tình cảm và sự độc đáo trong nhân sinh quan của họ. Trong hát lượn của người Nùng cũng có thể gặp một số biểu tượng qua các từ ngữ – kết quả của quá trình chuyển nghĩa, vốn dùng để biểu thị các sự vật hiện tượng cụ thể, lại được dùng để chỉ các sự vật hiện tượng khái quát trừu tượng khác. VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN 130 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH LINGUISTIC FEATURES IN LUON SONGS BY THE NUNG PEOPLE IN XIN MAN DISTRICT OF HA GIANG PROVINCE Nguyen Thu Quynha Sung Seo Litb Abstract: Like all other ethnic minorities in Vietnam, the Nung people have their own unique cultural and artistic features that contribute to the diversity created by 54 ethnic minorities in Vietnam. In the traditional culture of the Nung people, singing luon is one of the cultural heritages that they have developed since the primitive period when “there was catastrophic flood and heavy rain”, and it has been transmitted through generations. Today, this article focuses on studying the linguistic features of luon songs of the Nung people in terms of form and semantics. The material of the article is 17 luon songs of Nung people (provided by collaborators Sung Seo Chi and Sung Gia Sang in Xin Man district, Ha Giang province). These songs have been recorded, transcribed, translated, literarily translated and textualized by the authors for the purpose of the research. Keywords: Luon singing; Nung people; Linguistic features; Xin Man, Ha Giang province Thai Nguyen University of Education a Email: nguyenthuquynh@dhsptn.edu.vn b Email: sunglit89@gmail.com Received: 25/5/2019 Reviewed: 2/6/2019 Revised: 7/6/2019 Accepted: 12/6/2019 Released: 21/6/2019 DOI: https://doi.org/10.25073/0866-773X/312 Tài liệu tham khảo Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội Nguyễn Quang Hồng, Phan Diễm Phương (2016), Âm tiết tiếng Việt và ngôn từ thi ca, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội Nguyễn Văn Lộc (chủ biên, 2010), Nghiên cứu bảo tồn và phát triển ngôn ngữ, văn hóa một số dân tộc thiểu số ở Việt Bắc, Nxb. Đại học Thái Nguyên, Thái Nguyên. Nguyễn Đức Hiểu – Nguyễn Huệ Chi – Nguyễn Văn Tửu – Trần Hữu Tá (chủ biên, 2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, Hà Nội. Hoàng Nam (chủ biên, 2013), Đặc trưng văn hóa truyền thống 54 dân tộc Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội Nguyễn Đức Tồn (2008), Đặc trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội. Nguyễn Thị Việt Thanh – Vương Toàn (chủ biên) (2016), Từ điển văn hóa truyền thống các dân tộc, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. Phạm Ngọc Thưởng (1999), Cách xưng hô trong tiếng Nùng, Luận án Tiến sĩ bảo vệ tại Trường Đại học Sư phạm, Hà Nội. Vương Toàn (2012), Sự khác biệt giữa các ngành Nùng Việt Nam và câu chuyện còn bỏ ngỏ, Báo cáo trình bày ngày 06/6/2012 tại Hội nghị Thái học Việt Nam lần thứ tư VI, TP Thanh Hóa. In trong: Cộng đồng các tộc người ngữ hệ Thái - Kadai ở Việt Nam Truyền thống, hội nhập và phát triển, Nxb Thế giới. Vương Toàn (2017), Văn học dân gian các dân tộc Nùng và Tày: Tình hình sưu tầm và khảo cứu. Trong: Phát huy vai trò, bản sắc cộng đồng các dân tộc Thái – Kadai trong hội nhập và phát triển bền vững. Hội nghị quốc gia Thái học lần 8 tại Nghệ An, Nxb Thế giới, 2017, tr.529-540, ISBN: 978-604- 77-3899-3. Hà Nội.
File đính kèm:
- dac_diem_ngon_ngu_trong_cac_bai_hat_luon_cua_nguoi_nung_o_hu.pdf