Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết "Chim én bay" của Nguyễn Trí Huân

TÓM TẮT

Tiểu thuyết Chim én bay của Nguyễn Trí Huân được viết năm 1987, đã đạt giải thưởng Văn học

Bộ Quốc phòng 1985 - 1989 và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 1988 - 1989. Viết về chiến

tranh bằng cái nhìn thế sự, nhà văn đã khai thác những mất mát, đau thương, những vết thương

trong tâm khảm con người Cảm hứng bi kịch trong tác phẩm được thể hiện khá rõ qua số phận

của nhân vật Quy, gắn liền với những hồi ức bi thảm về chiến tranh, những khát vọng đau đớn về

tình yêu, hạnh phúc và những trăn trở, day dứt về hiện tại Với kỹ thuật dòng ký ức, Nguyễn Trí

Huân đã nhìn sâu vào bi kịch của nhân vật, từ đó đặt ra những vấn đề bức thiết và có ý nghĩa về

việc giải quyết hậu quả của chiến tranh sau chiến tranh.

pdf6 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 520 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết "Chim én bay" của Nguyễn Trí Huân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
lên trong ngực chị” [2]. Nguyễn 
Trí Huân đã miêu tả tâm lý nhân vật một cách 
tự nhiên, logic và thuyết phục. Quy đã dành 
những nhịp đập đầu tiên của trái tim mình cho 
Cường, từ ước ao được sống cùng anh khi 
chiến tranh kết thúc, từ cái đêm dài dằng dặc 
dưới căn hầm bí mật với bao tình cảm phức 
tạp, rắc rối nhưng đã “chấm dứt một cái gì và 
bắt đầu một cái gì vừa mơ hồ vừa rõ ràng 
trong cuộc đời chị” [2]. Chị nhận ra mình đã 
yêu anh bắt đầu từ đêm hôm ấy, dù khi đó chị 
mới là một cô bé 15. Tình yêu cứ lớn dần, 
chín dần cho đến lúc chị nhận ra anh quan 
trọng với chị đến mức nào: “Chị cảm thấy bơ 
vơ,côi cút chị nhớ anh, mong anh khắc 
khoải với một cái gì thật da diết, sâu 
nặng chị không thể thiếu được anh. Anh đã 
là tất cả đối với chị: vừa là cha, là anh, là chị 
Hảo Một cái gì đó thật mảnh, thật mơ hồ 
đang hình thành, đang vỡ ra để biến một cô 
bé thành một cô gái trọn vẹn” [2]. Mối thù 
sâu sắc, tình yêu thương da diếtđã khiến chị 
cầm súng, một mình bước tới trụ sở hội đồng 
xã bắn chết kẻ thù để chấm dứt những căng 
thẳng, đau đớn, day dứt, để rồi sau đó lê lết 
qua các nhà tù, rơi vào chuỗi bi kịch cay đắng 
của cuộc đời. 
Bi kịch tình yêu của Quy bắt đầu khi chị trở 
lại cuộc sống bình thường. Lẽ ra chị hoàn 
toàn có thể được hưởng một tình yêu, một 
cuộc sống hạnh phúc. Cuộc đoàn tụ, sum họp 
giữa chị và Cường đã sớm rơi vào đau khổ 
bởi anh “không đủ can đảm để chia sẻ 
những mất mát của chị”. Dù đau đớn tột 
cùng, dù cảm thấy “một cái gì đấy đang đứt 
rời ra trong cơ thể của mình” [2] chị vẫn can 
đảm nói lời chia tay với anh, để rồi tiếp tục 
sống lặng lẽ, cô đơn với tình yêu luôn cháy 
bỏng, khao khát. 
Ngô Thu Thủy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 15 - 20 
18 
Ám ảnh chiến tranh khiến chị đau đớn nhưng 
có lẽ những khát vọng hạnh phúc bình thường 
của một người vợ, người mẹ còn khiến chị 
đau đớn hơn gấp bội “nhiều đêm chị để đèn 
ngủ đến sáng mở radio thật to cho đỡ trống 
trải”, “Lòng chị se lại khi gặp hai chiếc gối 
trắng đặt bên nhau trên chiếc giường gỗ 
mới”.“Hầu hết những đêm thao thức bởi 
những khát vọng bình thường của người phụ 
nữ chưa hề được làm vợ, làm mẹ, chị đã sống 
bằng mộng mị với Dũngtỉnh dậy, người chị 
trở nên phờ phạcchị vội vã chạy lao ra 
ngoài, cố trấn tĩnh cho thật tỉnh táo” 
“Người chị tê dại, cái ước muốn được chia 
sẻ, được thỏa mãn đột ngột đốt cháy trái tim 
chịchị ôm riết lấy anh, cảm thấy đau thắt nơi 
ngực bởi một sự mất mát” [2]. Nhà văn đã 
miêu tả những cảm giác, khát vọng thật bình 
dị, đơn sơ mà sao khó khăn và đau đớn đến tột 
cùng với Quy Chiến tranh đã để lại những 
hậu quả tinh thần nặng nề trong tâm khảm con 
người như vậy. Biết bao số phận như Quy đã 
im lặng, cay đắng, đơn độc sống 
Đi hết cuộc đời ngắn ngủi của mình, Quy đã 
tìm thấy tình yêu, chị đã nhớ, thương và được 
đáp lại. “Lòng chị tràn ngập hạnh phúc, mặc 
dù niềm hạnh phúc đó chỉ đến với chị trong 
chốc lát” [2]. Nhưng cái hẹn tháng giêng của 
anh trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh ấy 
mãi mãi không được thực hiện bởi chị đã ra đi 
vì căn bệnh ung thư quái ác do di chứng của 
chiến tranh. “Niềm hạnh phúc đến với chị thật 
muộn màng nhưng đã đền bù được tất cả 
những gì mà chị từng mất mát” [2]. 
Nhìn sâu vào nỗi cô đơn, sự khao khát đầy 
thiên tính nữ của nhân vật, nhà văn đã bày tỏ 
niềm cảm thông sâu sắc với số phận con người 
sau cuộc chiến. Tác phẩm vì thế tự nó đã trở về 
với cội nguồn của cảm hứng nhân văn. 
NỖI KHẮC KHOẢI, DAY DỨT VỀ HIỆN TẠI 
Xuyên suốt trong tác phẩm là nỗi trăn trở day 
dứt “tìm lại nhà những tên ác ôn mình đã giết 
xem vợ con chúng hiện sống ra sao” của nhân 
vật Quy. Điều đó khiến chị không thể sống 
thanh thản. “Không phải là sự phản tỉnh, hối 
hận, tự vấn lương tâm, bởi vì quá khứ vốn 
hết sức rạch ròi trong chị và nếu phải làm 
lại, chị vẫn không thể làm khác” [3] “vì đó là 
sinh mệnh, là sự mất còn của cả quê hương 
chị” [2]). Cái khắc khoải khó gọi tên ấy, cùng 
với hình ảnh chị Năm - vợ Giám Tuân với 
tiếng thét “chạy đi” đã cứu chị, cứ day dứt 
trong chị, khiến chị đã nhiều lần đến nhà 
Giám Tuân, nhiều lần bênh vực vợ con hắn, 
mang gạo đến cho mấy mẹ con 
Chính Quy cũng không hiểu vì sao chị lại như 
vậy. Nhưng có một điều dễ hiểu. Chị là người 
nhân hậu và vị tha. Chị căm thù Giám Tuân, 
chính hắn là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến 
bao bi kịch trong cuộc đời chị, theo quy luật 
chị hoàn toàn có thể thù ghét vợ con hắn và 
hoàn toàn có thể không bận tâm đến họ. 
Nhưng lòng trắc ẩn, bao dung của chị vốn 
không hề lẫn lộn, thậm chí vượt qua hận thù 
từ ngày cô bé 15 trong chị đứng sững, không 
dám nổ súng vào Giám Tuân bởi hắn bế trên 
tay đứa trẻ. Chị đã thông cảm sâu sắc với chị 
Năm - vợ Giám Tuân: một cuộc đời cũng đầy 
cay đắng và bất hạnh: cô du kích trong sáng 
nhưng nhu nhược, ghê tởm chồng đến cực độ 
nhưng vẫn phải sống chung cho đến khi hắn 
chết, chịu bao tủi cực với thân phận vợ của 
tên phản bội và nỗi đau đớn của “người mẹ 
khi biết con mình suốt đời phải mang tiếng là 
con của tên ác ôn” [2]- Người phụ nữ ấy đau 
khổ đến mức giả điên để đối phó với cuộc 
đời, cuối cùng tự tìm đến cái chết giải thoát 
cho mình dù chị đã từng ý thức sâu sắc: 
“sống để làm gì? Nhưng chết được cũng 
khó Còn 2 đứa nhỏ lúc nào cũng lăm le báo 
thù. Bởi vậy tôi không chết được” [2]. 
Những số phận như vợ Hai Đích, chị Năm, 
những đứa trẻ lớn lên trong thù hận và sự 
khinh ghét của mọi người xung quanhlà 
một khía cạnh khác của chiến tranh. Làm thế 
nào để phá vỡ định kiến của một tập thể? Làm 
thế nào để “khắc phục những ấn tượng và 
quan niệm thiếu nhân đạo đối với gia đình 
ngụy quân, ngụy quyền cũ”. Làm sao để 
“những ai làm tốt nghĩa vụ công dân, dù xuất 
thân từ thành phần nào, có quá khứ thế nào 
đều đáng được khen ngợi”. Làm sao để “trẻ 
emđược bình đẳng như nhau, bởi chúng 
không hề tham dự vào tội ác của cha mẹ 
chúng và đừng đẩy chúng về phía tội ác mà lẽ 
ra chúng nó có thể xa lánh được” [2] 
Ngô Thu Thủy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 15 - 20 
19 
Đó thực sự là những vấn đề bức thiết được 
đặt ra sau cuộc chiến. Vẫn hy sinh bản thân 
mình vì người khác, cho đến cuối đời, Quy đã 
đấu tranh quyết liệt để giành lấy sự bình đẳng 
cho cuộc sống của những gia đình người thân 
của những tên phản bội. “Đến cuối cuộc đời 
mình, chị vẫn còn kịp làm thêm một việc kỳ 
diệu: hàn gắn nỗi đau chiến tranh cho con 
trai kẻ thù bằng chính nỗi đau của mình” [1]. 
Quyết định của Thường vụ Đảng ủy thành lập 
quỹ phúc lợi trợ giúp những người khó khăn 
bất kể thuộc thành phần nào, đứa trẻ con chị 
Năm sẽ được cắp sách tới trường là một hé 
mở cho một tương lai tươi sáng hơn, cho một 
ước vọng “cái ác bị vùi sâu chôn chặt trong 
đời sống hàng ngày, cho một thế hệ cắp sách 
đến trường, không biết thế nào là tang tóc, 
chiến tranh”[2]. 
Chim én bay là một cuốn tiểu thuyết xúc động 
và thuyết phục người đọc. Dõi theo ký ức của 
nhân vật Quy, đồng hành với mọi cảm xúc 
của nhân vật, người đọc có thể nhận thấy 
thông điệp của tác giả: “Cuộc chiến tranh 
xâm lược của Mỹ đã để lại trên quê hương chị 
những hậu quả tinh thần thật nặng nề - những 
hậu quả mà chị đinh ninh rằng, thế hệ của 
chị, thế hệ đã trải qua cuộc chiến tranh tàn 
khốc ấy không dễ gì có thể khắc phục hết 
được”[2]. Những hậu quả tinh thần ấy vẫn 
tồn tại, dai dẳng tới tận bây giờ, khi đất nước 
đã trải qua hơn 30 năm thống nhất Đó là 
nước mắt màu da cam của những nạn nhân 
chất độc điôxin, là những người lính bị bỏ 
quên sau cuộc chiến, là những số phận dở 
dang, cô độc.Giải quyết những tồn tại, 
những bi kịch ấy là ý thức trách nhiệm của 
mỗi cá nhân. Để cuộc sống này không còn 
những số phận bất hạnh như Quy, để lời hát 
trẻ thơ vang lên ý nghĩa và trong sáng: 
“Em mong sao trên trái đất hoa thơm nở bốn mùa 
Em mong sao trên trái đất không còn sự chia lìa 
Em mong sao trên trái đất mọi con người 
Như em đây là chim trắng bay giữa trời ... 
Sống để yêu thương....” 
Chọn một góc độ khai thác mới từ một đề tài 
quen thuộc, với Chim én bay, Nguyễn Trí 
Huân đã góp một tiếng nói riêng vào dòng 
văn học chiến tranh sau 1975. Thủ pháp đồng 
hiện với sự đan xen giữa quá khứ và hiện tại, 
sự đứt nối của cảm xúc tô đậm nỗi đau, sự cô 
đơn; nghệ thuật xây dựng tình huống với hàng 
loạt tình huống éo le bi kịch trong cuộc đời 
nhân vật; nghệ thuật miêu tả tâm lý; giọng 
điệu khắc khoải suy ngẫm với những day dứt, 
trăn trở... đã thể hiện rõ nét cảm hứng bi kịch 
trong tác phẩm và mang lại một sáng tạo nghệ 
thuật mới, có giá trị trong văn học Việt Nam 
hiện - đương đại. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nguyễn Thị Long Hòa, “Chim én bay”, 
www.nhabubu.com/khoa-hoa/hoa/doc-viet 
[2]. Nguyễn Trí Huân (2007), Chim én bay, Nxb 
Văn học. 
[3]. Lê Thành Nghị (2007), “Chim én bay - một 
cuốn tiểu thuyết thành công”, phụ lục cuốn Chim 
én bay, Nxb Văn học. 
Ngô Thu Thủy Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 80(04): 15 - 20 
20 
SUMMARY 
TRAGEDY INSPIRATION IN THE NOVEL FLYING SWALLOW 
BY NGUYEN TRI HUAN 
Ngo Thu Thuy* 
College of Education - TNU 
The novel Flying Swallow, written by Nguyen Tri Huan in 1987, has won awards of Literature - 
Department of Defense 1985 - 1989 and of the Vietnam Writers' Association 1988 -1989. The 
writer has exploited the loss, trauma, wounds in human's hearts ... when writing about wars by a 
view of world affairs. Tragedy inspiration in the work is shown quite clearly through the fate of 
the character Quy, associated with the tragic memories of the war, the painful aspiration of love, 
happiness and concern, torment of the present ... With current memory technology, Nguyen Tri 
Huan looked deeply into drama of his characters, therefore, he put forward the pressing issues and 
the significance of settling consequences of the war after the war. 
Keywords: Tragedy inspiration, Flying Swallow,
Nguyen Tri Huan, the war, characters, current 
memory
*
 Tel: 0912.551.751 

File đính kèm:

  • pdfcam_hung_bi_kich_trong_tieu_thuyet_chim_en_bay_cua_nguyen_tr.pdf