Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ điển Việt Nam
Tóm tắt
Vô ngôn trở thành một quy tắc mỹ học Trung Hoa và các nước thuộc khu vực văn hóa chữ Hán. Đề cao
vô ngôn trong văn chương là quan niệm văn học xuyên suốt thời cổ điển Việt Nam. Vô ngôn không đơn
thuần là không lời mà hàm chứa tất cả, tạo nên cảnh giới cao nhất của cái đẹp trong văn chương.
iệt Nam trước và sau ông thể hiện khi bày tỏ quan niệm của mình về vô ngôn qua các bài bạt, bài tựa, lời bình trực tiếp. Quan niệm vô ngôn qua những lời phát biểu trực tiếp là khá phong phú và tương đối thống nhất. Tựu trung lại, quan niệm vô ngôn được biểu hiện qua “ý tại ngôn ngoại”, “ngôn bất tận ý”, tính hàm súc, tính dư vị trong văn chương. Sau đây là khái quát về các lời phát biểu trực tiếp nói lên quan niệm vô ngôn theo mốc thời gian từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX. Trong những lời bàn trực tiếp về vô ngôn trong văn chương, có lẽ Hoàng Đức Lương (Thế kỷ XV) là người đầu tiên. Đến 81 thời ông, văn chương Đại Việt bị thất lạc, mất mát quá nhiều. Theo ông, có bốn lý do khiến thơ văn không lưu truyền hết ở đời, trong đó lý do đầu tiên thuộc về bản chất của văn chương. Ông nói: “Đến như thơ văn, thì lại sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được”[9, tr 28]. Mặc dù đây là lý do mà Hoàng Đức Lương cho rằng nó khiến văn chương khó bảo tồn, dễ bị mất mát, nhưng qua đó, chúng ta thấy rằng, ông coi trọng vô ngôn trong văn chương. Vô ngôn ở đây gắn với tính dư vị trong văn chương. Tương tự, Nguyễn Dữ quan niệm, ý nghĩa của văn chương nằm ngoài câu chữ. Trong Cuộc nói chuyên ở Kim Hoa, Nguyễn Dữ có nói “Thơ của người đời xưa, lấy hùng hồn làm gốc, bình đạm làm khéo, câu tuy ngắn nhưng ý thì dài, lời tuy gần nhưng nghĩa thì xa”[9, tr 42]. Nguyễn Cư Trinh cũng rất dề cao vô ngôn trong sáng tác. Ông cho rằng “lòng người là thứ khó lường”, vì vậy khi phát ra thành thơ “đến nỗi một chữ mà nghĩ ba năm mới được, giảng ngàn năm chưa xong”. Ông quan niệm văn chương phải giản dị, ý nghĩa phải hàm súc: “Tóm lại, người làm thơ không ngoài lấy trung hậu làm gốc, ý nghĩa phải hàm súc, lời thơ phải giản dị”[11, tr 63]. Lê Hữu Kiều quan niệm trong sáng tác cần miêu tả được cái thần của từng sự vật, có như vậy thì thơ mới chân thật, mới giàu ý nghĩa. Còn nếu chỉ hời hợt bề ngoài thì chỉ là theo đuổi cái hư ảo, mà xem như chưa đạt đến điều thơ cần đạt tới. Chính vì thâu tóm được cái thần của sự vật, nên chỉ một câu thơ có thể thấy được muôn hình cảnh. Đó chính là quan niệm nghệ thuật nói ít nhưng lại gợi nhiều. Ông ca ngợi thơ cận thể nhà Đường như sau: “Mô tả đường nét bên ngoài mà nổi lên cái thần, nói một câu có thể tỏ được trăm ý, xem kỹ lưỡng có thể được muôn cảnh. Nghệ thuật thơ văn đến thế thật là thần diệu!” (Bài tựa tập thơ Tàng Chuyết tập)[11, tr 71]. Ngô Thì Nhậm trong bài tựa Hoàng Công thi tập cũng chú trọng đến vô ngôn và cái thần của thơ. Thơ hay là phải “ngụ ý sâu xa ngoài cảnh vật” và “có cái thần rộng đến ngàn xưa”, ông nói: “Ông bạn già của ta là Hoàng Công, theo nếp thi thư nổi tiếng ở trong kinh, ngoài nước. Từ khi ta được vào chầu trong điện, cùng làm việc với ông, từng thấy những bài vịnh sử và ngâm vịnh của ông đều là những bài có cái thần rộng đến ngàn xưa, ngụ ý sâu xa ngoài cảnh vật, thật đã ngang hàng với họ Khuất họ Tống sánh vai với họ Thẩm, họ Tạ” (Bài tựa Hoàng Công thi tập)[11, tr 146]. Lê Quý Đôn có nhiều ý kiến bàn về văn học, mà cho đến ngày nay vẫn còn nguyên giá trị, trong đó có ý kiến về vô ngôn. Trong sách Vân đài loại ngữ, Lê Qúy Đôn tâm đắc khi dẫn lời Tô Đông Pha: “Ý dứt mà lời hết là lời nói hay trong thiên hạ. Nhưng lời dứt mà ý không hết thì lại càng hay hơn nữa”[11, tr 98]. Mọi vật đều ẩn chứa điều kỳ diệu và có tính tương đối “trong cái thối nát, xuất hiện cái thần kỳ”, và “trong cái thô thiển chứa đựng cái tinh vi”,... cho nên ngay cả văn chương cũng không đủ sức khám phá hết sự vật. Và chỗ tuyệt diệu của văn chương cũng có chỗ đâu phải dùng lời mà biểu đạt được. Đó là quan niệm của Ngô Thì Vị: “Tôi đọc đi đọc lại thơ ông và tham cứu bài tựa của Nguyễn hầu, giống như người vẽ nó thì lại càng nắm bắt hết được cái hình dung của nó. Kinh Dịch nói:“Thư không thể nói hết lời, lời không thể nói hết ý, tôi quên mình quê vụng, hết thảy trình bày lời lẽ của mình để viết lời 82 bạt này” (Bài bạt Cấn Trai thi tập)[ 7, tr 111]. Lê Hữu Trác quan niệm, đối với thơ điều quan trọng là ở ý, làm thơ phải chú trọng ở những khoảng lặng, khoảng trống, vô ngôn để gợi mở và làm cho người đọc phải suy nghĩ mới hiểu được thì thơ mới hay: “Thơ cốt ở ý, ý có sâu xa, thơ mới hay. Không phải bất cứ điều gì cũng phải nói ra bằng thơ. Như thế mới là thơ có giá trị.”[11, tr 101]. Nhữ Bá Sĩ khi bàn về thiên Thục khách giải trào của một người bạn vong niên, ông nói có ba điều đáng lấy và bảy điều đáng bàn. Điều đáng bàn thứ sáu, tương tự quan niệm của Nguyễn Cư Trinh là chú trọng hàm súc của ngôn từ:“Cái ý của văn quý ở chất mà càng quý ở hàm súc”. Ông xem trọng ý nghĩa ngoài lời và xem đó mới là cái đích của thơ ca: “dù một lời mà bao quát trăm nghìn dặm cũng không ngại là thừa”, tất cả cũng chỉ cố “cho tinh thần ý thái của phong vật núi sông nơi muôn dặm, nhãy múa trên tờ giấy”[11, tr 219]. Đặng Huy Trứ khi viết lời tựa tập thơ của Trương Băng Nhiên, ông đã ca ngợi tài thơ của Trương Băng Nhiên với những lời lẽ hết sức bay bổng, từ đó chúng ta cũng thấy được quan niệm coi trọng ý hơn lời và ý tại ngôn ngoại của Đặng Huy Trứ: “Tôi mở ra đọc, thấy ý tứ trung hậu tràn trề ngoài lời lẽÝ thơ viên mãn mà rộng rãi, khí thơ hùng hồn mà thẳng ngay, lời thơ gọn mà đẹp, vị thơ đậm mà tươi,” [11, tr 279]. Nguyễn Miên Thẩm, trong bài tựa Tập tiểu nhạc phủ vịnh sử ghi lại những bài thơ đề ở bình phong của nhà vua, cho rằng: “năm điều tuyệt diệu, có mấy điều khó như sau: Ví như bức họa của Tiêu Bôn chỉ rộng bằng một thước mà thu cả phong cảnh muôn dặm; tấm thêu của Mỵ Nương, trên một mảnh lụa mà thêu đủ chữ của bảy quyển sách. Chín lời nói của Du Cát, lời ít mà ý xa; ba tiếng trả lời của Nguyễn Chiêm, nói đơn giản mà lí lẽ đầy đủ”[11, tr 258]. Bốn điều khó mà Miên Thẩm nêu ra đều hàm nghĩa ngôn bất tận ý, ý tại ngôn ngoại. Nguyễn Mại cũng đề cao tính cô đọng, súc tích, lời gần mà ý xa trong sáng tác văn chương. Đồng thời ông cũng cho rằng thi liệu sáng tác văn chương đó chính là hiện thực. Việc sáng tác thơ vốn xuất phát từ cảm hứng chân thực trước sự vật hiện tượng ngoài thực tế. Cho nên, ông cũng đề cao loại ca dao thế tục, vốn trước kia không được đề cao và ngay cả những vật chi ly nhất như cây cỏ, chim sâu cũng là văn chương cả. Tự nhiên chính là nguốn thi liệu dồi dào, và ẩn chứa ý nghĩa vô hạn: “Phong đó chăng? Sử đó chăng? Kể ra loại ca dao của thế tục, xem qua chỉ là loại thơ kém không đủ để lên đàn đại nhã, mà nghiền ngẫm cho sâu thì gió, mây, sương, móc đều là văn chương, cây cỏ chim sâu lời gần mà ý xa, hầu như có cái thể tài phát huy phong, nhã” (Bài tựa Phong dao là quốc sử)[11, tr 278]. Để kết thúc những lời phát biểu trực tiếp về vô ngôn, có lẽ quan niệm của Vũ Duy Thanh sẽ phần nào khái quát được quan niệm vô ngôn trong văn chương. Trong Bồng Châu thi văn tập, ông quan niệm: “Cái nguyên cớ của văn chương mặc ai muốn hiểu; chỉ nghe tới cái vô thanh sẽ ngộ được cái hữu thanh” [7, tr 76]. Như vậy, quan niệm vô ngôn đối với các Thiền sư, quý tộc thời Lý, Trần, tuy thể hiện gián tiếp qua tác phẩm, nhưng lại trực tiếp nói về quan niệm vô ngôn trong triết lý Thiền tông và trong thơ. Vô ngôn là Thiền 83 là phương thức giao tiếp, truyền tin “dĩ tâm truyền tâm” trong Thiền. Vô ngôn trong thơ cũng mang tính Thiền, và đó còn là sự hữu hạn của ngôn ngữ, là những khoảng trống đầy gợi mở, là không nói nhưng lại nói lên nhiều điều. Khi các tác giả nhà văn- nhà nho phát biểu trực tiếp về quan niệm ngôn ngữ trong văn chương, vô ngôn lại được gián tiếp thể hiện qua “ý tại ngôn ngoại”, “ngôn bất tận ý”, tính hàm súc và dư vị. 5. Kết luận Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ điển Việt Nam có nội hàm phong phú, sâu sắc và trở thành hạt nhân của khuynh hướng Thiền Lão - một trong những khuynh hướng cơ bản của văn học cổ điển Việt Nam. Vô ngôn đã tạo cho thế giới ngôn ngữ văn chương trở lên bí ẩn, đầy màu sắc, nhiều tầng nghĩa, làm cho văn chương trở nên thần diệu. Vô ngôn trong quan niệm văn học cổ điển Việt Nam không đơn thuần là một yếu tố thẩm mỹ, mà đã được nâng lên thành lý tưởng thẩm mỹ, phong cách nghệ thuật. Từ đó, vô ngôn trở thành một nét truyền thống độc đáo, để lại dấu ấn sâu đậm trong văn học cổ điển Việt Nam. Có thể nói rằng chính vô ngôn đã góp phần quan trọng tạo nên tính uyên thâm, giá trị trường tồn cho văn học cổ điển Việt Nam. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Duy Cần (2013), Lão Tử Đạo Đức kinh, Nxb Trẻ, TP.HCM. 2. Nguyễn Duy Cần (2013), Trang Tử Nam Hoa kinh, Nxb Trẻ, TP.HCM. 3. Phan Huy Chú (1992), Lịch triều hiến chương loại chí, tập 3, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 4. Trần Thanh Đạm, Phạm Thị Hảo (2007), Lưu Hiệp Văn tâm điêu long, Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Lê Giang (2006), Tư tưởng lý luận văn học văn học cổ Trung Quốc, chuyên luận dùng cho cao học, Nxb ĐHQG TPHCM. 6. Chương Bồi Hoàn, Lạc Ngọc Minh (2000), Trung Quốc văn học sử, tập 2, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 7. Đỗ Văn Hỷ (1993), Người xưa bàn về văn chương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 8. Khoa Văn học và Báo chí (2006), Một số vấn đề về lý luận, phê bình văn học cổ Trung Quốc, Báo cáo Hội nghị khoa học, Nxb Trường ĐHKHXH & NV TP.HCM. 9. Nguyễn Minh Tấn (chủ biên) (1981), Từ trong di sản..., Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 10. Khâu Chấn Thanh (1995), Lý luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 11. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần Nho Thìn (2007) Mười thế kỷ bàn về văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 12. Chung Vinh (2008), Thi Phẩm tập bình, Nguyễn Đình Phức, Lê Quang Trường tuyển dịch, Nxb Văn nghệ, TP.HCM. Ngày nhận bài: 26/3/2015 Biên tập xong: 15/8/2015 Duyệt đăng: 20/8/2015
File đính kèm:
- vo_ngon_trong_quan_niem_van_hoc_co_dien_viet_nam.pdf