Về dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt
TÓM TẮT
Bài viết khảo sát dạng thức hát kết thúc trong hát đối đáp nam nữ người Việt ở cả ba
miền đất nước về đặc điểm nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật, chỉ ra một số điểm tương
đồng và dị biệt trong những bài hát này ở các địa phương ( với các bối cảnh khác nhau,
như hát quan họ ở Bắc bộ, hát phường vải ở Trung bộ, hò chèo ghe ở Nam bộ). Cuối cùng,
bài viết trình bày vai trò của dạng thức trong tổng thể cuộc hát đối đáp, trong văn hóa
người Việt và trong việc tìm hiểu các văn bản ca dao.
ừa ấm áp nghĩa tình. Cũng như ở các dạng thức khác trước đó, dạng hát kết thúc của quan họ gồm nhiều lời với phong cách mượt mà, trau chuốt: “Người về bỏ bạn sao đành - Người về em vẫn đinh ninh tấm lòng - Người về bỏ vắng phòng không - Người về em vẫn nay trông mai chờ...”, “Người về em những khóc thầm – Bên song, vạt áo ướt đầm như mưa...”...Trong một số trường hợp, câu hát thể hiện tình yêu lứa đôi thắm thiết, đậm sâu: “...Trách ai trải chiếu không nằm – Để em trằn trọc một mình sao đang...”, “Người về thưa bác mẹ thầy – Rồi ra mở lịch định ngày kết duyên...”... nhưng được dùng như lời từ tạ giữa đôi dân, giữa hai quan họ bạn đã kết nghĩa và xem nhau như anh em một nhà. Đặng Văn Lung có nhận xét rất hay rằng: “...Phát triển dòng ngôn ngữ mang tính thiêng của hội hè, người quan họ tạo ra một thế giới thăng hoa đặc biệt so với các dân ca khác, với trai thanh gái lịch các nơi khác.”[1, tr.138]. Hát phường vải ở Nghệ Tĩnh không 19 gắn với lễ hội, với các nghi thức thờ cúng, tế tự hay với tục kết chạ. Đây là sinh hoạt văn nghệ của những người lao động làm nghề kéo vải, thường diễn ra từ sau mùa thu hoạch bông cho đến tháng tám, tháng chín hàng năm. Quay xa kéo vải là công việc của phụ nữ cho nên khi đối đáp, các cô thường vừa làm việc vừa ca hát, còn các chàng trai đến hát thì không làm gì, chỉ đứng hoặc ngồi để cất giọng mà thôi. Một cuộc hát đúng thủ tục “thường kéo dài hai ba, bốn có khi năm, sáu đêm mới đủ mọi chặng bước” [8, tr.49], nhưng trong thực tế sinh hoạt linh động hơn nhiều. Trai gái hát với nhau để trao đổi tình cảm, đua tài đua trí, kết bạn, kết đôi trong không khí vui tươi, sôi nổi. Nếu như khi bắt đầu gặp nhau đã có những lời tha thiết như: “Dừng xa khoan kéo ơi phường, Hình như có khách viễn phương đến nhà”, “Em đang kéo vải giữa sân, Thấy chàng quân tử mười phần nhớ thương”, “Chào chàng nho sĩ vài lời, Gọi là phường vải nhởi chơi theo mùa”... rồi khi xe kết “Bốn mùa xuân hạ thu đông, Thiếp ngồi kéo vải chỉ trông bóng chàng”, “Một niềm chỉ quyết lấy o, Khéo bông khéo vải, khéo lo việc nhà”, “Hỡi người dệt vải lanh tay, Mắt trông lúng liếng lòng say lấy lòng”, “Hỡi người kéo vải quay vành, Có về dưới Liệu với anh thì về”... thì ở chặng cuối, lúc hát tiễn cũng không kém phần mãnh liệt “Em đang kéo vải dựa thềm, Chàng về chăn ấm gối êm sao đành?”, “Xếp xa quay lại em tề, Gửi thầy với mẹ mà về theo anh.”... Trong câu hát, có khá nhiều từ ngữ gắn với nghề kéo vải. Công việc lao động đi vào lời ca thật tự nhiên, nhẹ nhàng mà cũng thật đẹp đẽ, lãng mạn. Có những câu hát chải chuốt, điêu luyện, có những câu mộc mạc, giản dị... nhưng nhìn chung loại sau vẫn chiếm phần hơn. Chặng kết thúc trong hát phường vải với số lượng lớn lời ca mang lại cho người tiếp nhận cái nhìn đầy đủ hơn về tâm hồn phong phú và sự tinh tế, tài hoa của người dân xứ Nghệ, như Xuân Diệu đã có lần nhận xét “chỉ riêng một chuyện ra về, đã bao nhiêu trùng trùng điệp điệp của hai tấm lòng lưu luyến nhau: “Nửa về nửa muốn ở đây...”, “Nghe tin anh dóng dả ra về...”, rồi thế là nối tiếp nhau tất cả tám mươi câu “ra về”, có lẽ là của hàng vạn, hàng ức đôi trai gái của núi Hồng, sông Lam tiễn biệt nhau trong năm, sáu, bảy, tám trăm năm...Tầng tầng lớp lớp không dứt ra được.” [dẫn theo 8, tr.83] Bên cạnh đó, sự xuất hiện của các từ ngữ địa phương cũng góp phần tạo nên nét duyên cho câu hát tiễn: “Anh về em nỏ (không) chi đưa, Quan sơn nghìn dặm, em chưa hết lời”, “Anh về cho em về theo, Đói no có chắc (nhau), giàu nghèo đủ đôi”, “May mô đâu may, khéo mô đâu khéo, Cơn (cây) cỏ héo gặp trộ (trận) mưa rào, Mối tình duyên hội ngộ, Liễu với đào ta kháp (gặp) nhau”, “Anh về răng (sao) đứt anh ơi...”... Với Nam Bộ, diễn tiến một cuộc hát thường không có nhiều nghi thức, thủ tục đơn giản hơn vì phần nhiều dân gian hát hò khi đang lao động cày cấy, gặt hái, chèo thuyền, giã gạo... Nếu chỉ là một cuộc tao ngộ tình cờ trên sông nước thì thời gian ca hát sẽ bị hạn chế, và số lượng dạng thức cũng như số lời hát được sử dụng lúc này hiển nhiên là ít ỏi. Còn trong những cuộc hát dài hơi hơn, qua các tài liệu khảo sát- số lượng dạng thức và lời hát có nhiều hơn, nhưng cũng không phong phú, bài bản như ở Bắc và Trung Bộ. Có thể tính chất công việc, đặc điểm môi trường lao động và giao tiếp, tính cách con người địa phương, mục đích ca hát...đã chi phối sinh hoạt trữ tình và dẫn đến đặc điểm này. Cũng có thể do 20 thực tế sưu tầm còn hạn chế, ghi chép văn bản còn rời rạc... nên người tiếp nhận chưa tiếp cận được với hát đối đáp Nam Bộ ở dạng đầy đủ và sống động như đã từng tồn tại trước kia. Các công thức quen thuộc “Anh về...”, “Ra về...”... được sử dụng không nhiều, mà phổ biến là cách đặt lời, dùng chữ ít theo khuôn khổ: “Hai hàng lụy nhỏ ròng ròng, Chồng nam vợ bắc đau lòng trời ôi, Còn một đêm nay nữa mai thôi, Giã từ em ở lại, anh hồi cố hương”, “Đất Châu Thành anh ở, Xứ Cần Thơ nọ em về, Bấy lâu sông cận biển kề, Phân chia mai trước (trúc) dầm dề hột châu”... Ngôn ngữ giao đối thường mang nhiều chất khẩu ngữ, dân dã: “Ghe anh lui về Gia Định, Em nhớ anh em thọ bịnh liền, Không tin anh hỏi lại xóm giềng đều hay”, “Anh về ở bển an bài, Cơm cháo qua ít bữa vài ngày em ghé thăm”... Như vậy, cùng là chia tay, dặn dò, bịn rịn... nhưng câu hát giã biệt trong quan họ Bắc Ninh, hát phường vải Nghệ Tĩnh, hò cấy, hò chèo ghe Nam Bộ... được hình thành và diễn xướng trong những bối cảnh khác nhau. Đối đáp khi hội hè, nghi lễ, vui chơi, lao động... có những cách thức không trùng lắp. Ở mỗi nhóm nhỏ, địa điểm và thời điểm tụ họp, môi trường sinh hoạt, cách thức tổ chức, cơ cấu nhóm hát, bài bản sử dụng, trang phục, ngôn ngữ giao tiếp...đều có những nét riêng, tạo nên phong cách độc đáo cho cuộc hát đối đáp ở từng nơi. 5. Cùng với các dạng thức khác (hát mở đầu, hát thử tài, hát xe kết), hát kết thúc góp phần tạo cho chỉnh thể cuộc hát được toàn vẹn, đầy đặn, phong phú. Gặp gỡ rồi chia tay, yêu thương rồi tiễn biệt...những lời hát ở chặng cuối này phù hợp với tâm lý tiếp nhận của cả người hát lẫn người nghe, khép lại một cuộc hát với nhiều luyến thương, tiếc nhớ... Hát kết thúc giúp đôi bên cùng cảm thấy đẹp lòng, đỡ bị hụt hẫng khi buộc phải xa cách những người bạn hát nhiều khi rất tâm đầu ý hợp với mình. Cuộc hát, đồng thời cũng là cuộc giao tiếp, rõ ràng đã đảm bảo được những nghi thức xã giao cần thiết. Dạng thức hát kết thúc còn là biểu hiện sinh động của những nét đẹp trong văn hóa giao tiếp người Việt. Đó là những lời lẽ lịch sự, trang trọng, thân thiện, hiếu khách..., là thái độ trọng tình (tình nghĩa, tình yêu quý hơn mọi thứ của cải, vật chất trên đời; được ca hát với nhau rồi kết thành gia thất hay kết bạn... là ước mơ hạnh phúc mà mọi cuộc hát đều hướng đến), trọng nữ (nữ được nhiều “ưu tiên” trong cuộc hát, được tự do bộc lộ tâm tư tình cảm về mọi vấn đề trong xã hội, luôn có ứng đối nhạy bén, thông minh, số lượng lời hát giã biệt của nữ không thấp hơn của nam...), trọng văn (ưa thích ca hát đối đáp, không muốn dừng cuộc hát, người hát giỏi được đánh giá cao....)... Dạng thức này ít nhiều đã góp phần ổn định, duy trì, củng cố những điểm trội trong văn hóa giao tiếp cộng đồng, đem đến cho mọi người những bài học ngôn giao sinh động, hấp dẫn trên nhiều phương diện. Khi tham gia cuộc hát, người ta tiếp nhận những cái hay và hành xử theo các khuôn mẫu đó. Dạng thức hát kết thúc cũng cho thấy sinh hoạt đối ca có quy ước, thể thức, truyền thống sáng tác và thưởng thức riêng. Có những yếu tố liên quan đến lề lối, bối cảnh, nội dung diễn xướng đã in dấu trên ngôn từ của lời hát. Khi những lời này được cố định bằng văn tự, tách rời đời sống sinh động đã từng gắn bó hữu cơ, các dấu ấn trên có thể trở nên có ích trong việc giúp người đọc hiểu đúng, rõ, sâu về tác phẩm (xác định bối cảnh, xác định hệ thống lời 21 hát mà văn bản đơn lẻ kia là một thành tố phụ thuộc, từ đó nhờ hệ thống mà hiểu thành tố và ngược lại). Sự hiểu biết về các dạng thức hát đối đáp nói chung, hát kết thúc nói riêng thật sự cần thiết để người đọc “giải mã” hiệu quả các lời hát dân gian trong tình hình không ít tuyển tập sưu tầm về thể loại này hiện nay còn chưa chú ý nhiều đến việc sắp xếp các lời theo tiến trình cuộc hát hay cung cấp những tình huống thật cụ thể cho các văn bản đối ca. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đặng Văn Lung (2005), Lễ hội và nhân sinh, Nxb. Đại học Quốc gia, Thành phố Hồ Chí Minh. 2. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ biên) (2004), Từ điển văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới, Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Giang Thu - Traàn Saûn - Phạm Thị Huyền (2003), Tìm hiểu hội mở mặt Thủy Nguyên, hội hát đúm Hải Phòng, Nxb. Văn hóa - Thông tin, Hà Nội. 4. Lư Nhất Vũ - Lê Giang - Nguyễn Văn Hoa (1985), Dân ca Kiên Giang, Sở Văn hóa – Thông tin Kiên Giang xb. 5. Mã Giang Lân - Nguyễn Đình Bưu (1976), Hát ví đồng bằng Hà Bắc, Ty văn hóa Hà Bắc xb. 6. Ngô Đức Thịnh - Frank Proschan (đồng chủ biên) (2005), Folklore thế giới - một số công trình nghiên cứu cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. Ngô Quang Nam – Xuân Thiêm (đồng chủ biên), (1986) , Văn hóa dân gian vùng đất Tổ, Sở Văn hóa thông tin Vĩnh Phú xb. 8. Ninh Viết Giao (2002), Hát phường vải, Nxb. Văn hóa – Thông tin và Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội. 9. Sông Thao – Đặng Văn Lung (2007), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, tập 4, quyển 2, Dân ca, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 10. Tô Ngọc Thanh (2007), Ghi chép về văn hóa và âm nhạc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 11. Triều Nguyên (1997), Hò đối đáp nam nữ Thừa Thiên – Huế, Nxb. Thuận Hóa, Huế. * Ngày nhận bài: 24/1/2015. Biên tập xong: 24/4/2015. Duyệt đăng: 04/5/2015.
File đính kèm:
- ve_dang_thuc_hat_ket_thuc_trong_hat_doi_dap_nam_nu_nguoi_vie.pdf