Tổng hợp và nghiên cứu tính chất điện hóa của màng nanocomposit Graphen/poly(1,8-Diaminonaphthalen)
Tóm tắt
Graphen (Gr) là vật liệu có tiềm năng lớn cho rất nhiều các ứng dụng do khả năng tăng cường tinh chất điện của chúng. Do đó, việc kết hợp Gr với vật liệu polyme dẫn điện được kỳ vọng sẽ hình thành vật liệu tổ hợp có những đặc tính vượt trội. Trong nghiên cứu này, vật liệu composit graphen/poly(1,8-diaminonaphthalen) được chế tạo trên điện cực than thủy tinh bằng phương pháp điện hóa. Các nghiên cứu khảo sát hành vi điện hóa thông qua kỹ thuật vôn-ampe vòng và phổ tổng trở điện hóa cho thấy màng composit có hoạt tính điên hóa và độ ổn định cao hơn nhiều so với màng poly(1,8-diaminonaphthalen) thuần. Từ các kết quả thí nghiệm thu được, có thể nghiên cứu phát triển cảm biến điện hóa không sử dụng chất đánh dấu trên cơ sở vật liệu graphen/poly(1,8-diaminonaphthalen) dựa vào sự tăng cường tính chất điện hóa nội tại của vật liệu composit này.
tổng hợp được phân tích bằng phổ Raman. Kết quả trình bày tại hình 2 cho thấy màng Gr/P(1,8DAN) thể hiện rõ ràng các dải đặc trưng của cả Gr và P(1,8DAN). Các pic raman cường độ mạnh tại ~1586 và 1449 cm−1 thể hiện dao động khung của nhân naphlalen, pic có cường độ yếu hơn ở ~1358 cm−1 chính là dao động của liên kết C−N [10]. Thêm vào đó, pic tại 2690 cm−1 (dải 2D) là đặc trưng cho cấu trúc của Gr [3]. Hình 2. Phổ Raman của Gr, P(1,8DAN) và Gr/P(1,8DAN) 3.3. Nghiên cứu tính chất điện hóa của màng Gr/P(1,8DAN) Tính chất điện hóa của điện cực màng tổ hợp Gr/P(1,8DAN) trên điện cực GC được nghiên cứu bằng kỹ thuật CV trong dung dịch HClO4 0,1 M. Điện cực màng P(1,8DAN) trên điện cực GC không phủ Gr cũng được đo đồng thời để so sánh. Kết quả thu được trình bày trên hình 3. Hình 3. Đường CV của điện cực (A) GC/P(1,8DAN) và (B) GC/Gr/P(1,8DAN) trong HClO4 0,1 M. Tốc độ quét 50 mV/s Có thể thấy, hoạt tính điện hóa của màng tổ hợp Gr/P(1,8DAN), hình 3B, mạnh hơn nhiều (mật độ dòng cao hơn khoảng 5 lần) so với màng P(1,8DAN) thuần, hình 3A, trong môi trường HClO4 0,1 M. Các cặp pic oxy hóa khử tại +0,07/-0,16V và +0,23/+0,08V là đặc trưng cho khả năng hoạt động điện hóa của P(1,8DAN), do các ion đối di chuyển vào và ra khỏi màng polyme [9, 10], xuất hiện khá rõ khi có mặt Gr. Khoảng cách đỉnh điện thế (∆Ep) của điện cực GC/Gr/P(1,8DAN) là 0,15 V và ∆Ep của điện cực GC/P(1,8DAN) là 0,26 V. Như vậy, khoảng cách pic được thu hẹp lại, đồng nghĩa với sự trao đổi điện tử của điện cực có Gr là nhanh hơn chứng tỏ, Gr với đặc tính linh động điện tử cao, khi được pha tạp vào màng polyme đã tăng mạnh khả năng trao đổi điện tử giữa bề mặt điện cực biến tính và dung dịch Tạp chí Khoa học và Công nghệ 129 (2018) 054-058 57 điện ly. Thêm vào đó, nếu như màng P(1,8DAN) thuần mật độ dòng điện bị suy giảm ngay sau vòng quét đầu tiên thì với màng Gr/P(1,8DAN) mật độ dòng ổn định ngay và hầu như không bị suy giảm sau hơn 20 chu kỳ quét. Từ kết quả đo đường phân cực CV trong môi trường axit HClO4 trên, nghiên cứu tiếp tục thực hiện đánh giá tính chất điện hóa của điện cực GC/Gr/P(1,8DAN) trong dung dịch điện ly là đệm PBS (pH = 7,4), đây là môi trường tương thích sinh học được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu ứng dụng cảm biến sinh học. Hình 4 dưới đây đưa ra đường CV của điện cực GC, GC/Gr, GC/P(1,8DAN) và GC/Gr/P(1,8DAN) trong dung dịch đệm PBS. Hình 4. Đường CV của điện cực (a) GC, (b) GC/Gr, (c) GC/P(1,8DAN) và (d) GC/Gr/P(1,8DAN) trong đệm PBS (pH = 7,4), tốc độ quét 50mV/s Kết quả đo chỉ ra màng tổ hợp Gr/P(1,8DAN) thể hiện rõ rệt hoạt tính điện hóa với pic xuất hiện tại +0,13/−0,06 V trong môi trường đệm PBS (hình 4, đường d). Trong khi đó màng P(1,8DAN) thuần (hình 4, đường c) không cho thấy rõ cặp pic này và mật độ dòng cũng nhỏ hơn nhiều so với màng có mặt Gr. Các đường CV của điện cực GC và GC/Gr cũng không thấy xuất hiện bất kỳ pic nào và điện lượng chuyển qua chất điện phân là rất nhỏ. Mật độ dòng của điện cực GC/Gr cao hơn so với điện cực GC chủ yếu là do sự thay đổi về điện tích bề mặt và/hoặc đặc tính dẫn điện cao của Gr. Như vậy điện cực trên cơ sở màng tổ hợp Gr/P(1,8DAN) có hoạt tính điện hóa khá tốt ngay cả trong môi trường trung tính, đây là tính chất quý báu bởi hầu hết các polyme dẫn điện chỉ có tính chất điện hóa trong môi trường axit. Sự hình thành các pic thể hiện trên đường CV được coi là các chỉ dấu điện hóa nội, nghĩa là có thể sử dụng các pic đặc trưng của vật liệu điện cực này để nhận biết sự tương tác giữa phần tử sinh học dò và đích (như sự lai hóa giữa các chuỗi ADN, hay sự hình thành phức hợp kháng nguyên-kháng thể...) trong chế tạo cảm biến sinh học không sử dụng chất đánh dấu (label-free). Diện tích bề mặt hiệu dụng của điện cực GC/Gr/P(1,8DAN) được xác định bằng kỹ thuật CV trong dung dịch K3[Fe(CN)6] 4 mM pha trong KNO3 1M thông qua phương trình Randles-Sevcik [11, 12]: Ipa = (2,69.105).n3/2.D1/2.C.A.ν1/2 trong đó, Ipa là cường độ dòng tại vị trí pic (A); n là số điện tử trao đổi trong phản ứng oxy hóa khử (n=1); D là hệ số khuếch tán của chất điện ly K3[Fe(CN)6] trong dung dịch (D=7,6.10−6cm2/s); C là nồng độ mol/cm3 của K3[Fe(CN)6]; A là diện tích bề mặt hiệu dụng (cm2) và ν là tốc độ quét thế vòng (V/s). Hình 5 đưa ra đường cong CV ở các tốc độ quét thế khác nhau trên điện cực GC/Gr/P(1,8DAN) và đồ thị mô tả mối quan hệ tuyến tính của giữa cường độ dòng tại pic anot (Ipa) và ν1/2. Hệ số góc k của phương trình hồi quy giữa Ipa và ν1/2 được dùng để ước tính diện tích bề mặt hiệu dụng A. A = k/[(2,69.105).n3/2.D1/2.C] = 0,18cm2 Hình 5. Đường phân cực CV của điện cực GC/Gr/P(1,8DAN) trong K3[Fe(CN)6] 4mM tại các tốc độ quét thế (0,02; 0,03; 0,04; 0,06; 0,10 V/s). Hình chèn: Đường hồi quy sự phụ thuộc cường độ pic anot Ipa vào tốc độ quét thế ν1/2 Hình 6. Phổ Nyquist của điện cực GC, GC/Gr, GC/P(1,8DAN) và GC/Gr/P(1,8DAN) trong dung dịch đệm PBS có chứa K3[Fe(CN)6]/K4[Fe(CN)6] 5mM đo tại điện thế mạch hở Tạp chí Khoa học và Công nghệ 129 (2018) 054-058 58 3.3. Phổ tổng trở điện hóa Phổ tổng trở điện hóa biểu diễn qua giản đồ Nyquits của điện cực GC, GC/Gr, GC/P(1,8DAN) và GC/Gr/P(1,8DAN) trong dung dịch đệm PBS có chứa K3[Fe(CN)6]/K4[Fe(CN)6] 5mM được đưa ra tại hình 6. Như có thể thấy tại hình 6, đường kính phần bán cung trên phổ Nyquist tại vùng tần số cao là thước đo giá trị điện trở trao đổi điện tích Rct. Giá trị Rct này được xác định bằng cách mô phỏng mạch tương đương Randles như trong sơ đồ mạch điện được chèn trong hình 6. Nếu như Rct của điện cực GC có một bán cung rất nhỏ với giá trị bẳng 544,2 Ω thì sau khi biến tính bằng Gr giá trị Rct giảm mạnh xuống 63,9Ω. Kết quả này cho thấy sự linh động điện tử cao của Gr đã cải thiện độ dẫn điện trên bề mặt điện cực làm cho quá trình chuyển điện tử dễ dàng hơn. Sau quá trình trùng hợp điện hóa hình thành màng P(1,8DAN) trên điện cực GC/Gr, Rct thu được là 4.700Ω, giá trị này nhỏ hơn so với Rct của điện cực P(1,8DAN) thuần khoảng 3 lần (Rct của điện cực GC/P(1,8DAN) là 13.900Ω). Kết quả này cho thấy vai trò của Gr trong màng composit, cải thiện hoạt tính điện hóa của màng polyme dẫn điện P(1,8DAN). Như vậy, tính chất dẫn điện của màng composite trên cơ sở P(1,8DAN) đã có sự cải thiện đáng kể mang lại tiềm năng ứng dụng của vật liệu này trong chế tạo cảm biến sinh học đo theo nguyên lý trở kháng điện hóa hoặc trên linh kiện vi cân tinh thể thạch anh (QCM). 4. Kết luận Nghiên cứu trình bày các kết quả ban đầu về quá trình trùng hợp điện hóa tạo màng nanocomposit graphen/poly(1,8-diaminonaphthalen) trong môi trường nước trên điện cực than thủy tinh. Các khảo sát về tính chất điện hóa của màng composit thông qua phổ tổng trở điện hóa và phương pháp vôn-ampe vòng trong môi trường axit cũng như trung tính đã được thực hiện. Kết quả cho thấy sự có mặt của graphen đã cải thiện rõ rệt hoạt tính điện hóa của điện cực. Đặc biệt, pic xuất hiện trong nền điện ly trung tính được coi là chỉ dấu điện hóa nội hiệu quả cho ứng dụng chế tạo cảm biến sinh học điện hóa không sử dụng chất đánh dấu. Tài liệu tham khảo [1] M.J. Allen, V.C. Tung, R.B. Kaner, Honeycomb Carbon: A Review of Graphene, Chem. Rev. 110 (2010) 132-145. [2] G. Kaur, R. Adhikari, P. Cass, M. Bown, P. Gunatillake, Electrically conductive polymers and composites for biomedical applications, RSC Adv. 5 (2015) 37553-37567. [3] N.T. Dung, V.H. Duy, Đ.T.T. Huyền, N.V. Tú, N.V. Chúc, N.H. Bình, T.Đ. Lâm, N.X. Phúc, T. Hoàng, Chế tạo và nghiên cứu tính chất màng tổ hợp dạng đa lớp graphen/poly(1,5-diaminonaphthalen), Tạp chí Khoa học và Công nghệ 52 (2014) 115-122. [4] H.D. Vu, L.H. Nguyen, T.D. Nguyen, H.B. Nguyen, T.L. Nguyen, D.L. Tran, Anodic stripping voltammetric determination of Cd2+ and Pb2+ using interpenetrated MWCNT/P1,5-DAN as an enhanced sensing interface, Ionics 21 (2015) 571-578. [5] T.D. Nguyen, T.T.H. Dang, H. Thai, L.H. Nguyen, D.L. Tran, B. Piro, M.C. Pham, One-step Electrosynthesis of Poly(1,5- diaminonaphthalene)/Graphene Nanocomposite as Platform for Lead Detection in Water, Electroanalysis 28 (2016) 1907-1913. [6] N.V. Chuc, N.H. Binh, C.T. Thanh, N.V. Tu, N.L. Huy, N.T. Dzung, P.N. Minh, V.T. Thu, T.D. Lam, Electrochemical Immunosensor for Detection of Atrazine Based on Polyaniline/Graphene, J. Mater. Sci. Technol. 32 (2016) 539-544. [7] M. El Rhazi, S. Majid, Electrochemical sensors based on polydiaminonaphthalene and polyphenylenediamine for monitoring metal pollutants, Trends Environ. Anal. Chem. 2 (2014) 33- 42. [8] V.A. Nguyen, H.L. Nguyen, D.T. Nguyen, Q.P. Do, L.D. Tran, Electrosynthesized poly(1,5- diaminonaphthalene)/polypyrrole nanowires bilayer as an immunosensor platform for breast cancer biomarker CA 15-3, Curr. Appl. Phys. 17 (2017) 1422-1429. [9] M. Tagowska, B. Pałys, M. Mazur, M. Skompska, K. Jackowska, In situ deposition of poly(1,8- diaminonaphthalene): from thin films to nanometer- sized structures, Electrochim. Acta 50 (2005) 2363- 2370. [10] N.T. Dung, P.N. Bách, Đ.L. Anh, T.T.X. Hằng, Tổng hợp điện hóa màng poly(1,8-diaminonaphtalen) trong môi trường nước, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 46 (2008) 97-101. [11] J. Shi, J.C. Claussen, E.S. McLamore, A. ul Haque, D. Jaroch, A.R. Diggs, P. Calvo-Marzal, J.L. Rickus, D.M. Porterfield, A comparative study of enzyme immobilization strategies for multi-walled carbon nanotube glucose biosensors, Nanotechno., 22 (2011) 355502. [12] M.P. Siswana, K.I. Ozoemena, T. Nyokong, Electrocatalysis of asulam on cobalt phthalocyanine modified multi-walled carbon nanotubes immobilized on a basal plane pyrolytic graphite electrode, Electrochim. Acta. 52 (2006) 114-122. Tạp chí Khoa học và Công nghệ 129 (2018) 054-058 59
File đính kèm:
- tong_hop_va_nghien_cuu_tinh_chat_dien_hoa_cua_mang_nanocompo.pdf