Tìm hiểu kiểu truyện phân xử trong truyện cổ các dân tộc Việt Nam
ABSTRACT
Arbitration stories appeared when classes in the society were divided, especially when
the regime of private property ownership was formed. Through the characters in the story,
the authors dreamed of the life of equality and justice. These stories enhance rational
thinking and praise the intelligence of the judges. These stories are also popular with the
Kinh people, which e h he i g’ ie w i i e e ie h he . The
judges' arbitration can be simple and rudimentary. However, in the development process
of literature, the magical element was gradually decreasing and the reality element was
increasing simultaneously, wich enhanced rational thinking. Most of the judges are
animals. Therefore, in such a correlation, we can understand this type of stories as a link
between animal old stories and fables.
ào đề cập trực tiếp đến mâu thuẫn do tranh chấp quyền lực cả. Tuy nhiên, một cách nào đó, chúng ta có thể ngầm hiểu rằng đằng sau các mâu thuẫn “ hi i h g i i g i” và mâu thuẫn do “ h h h i ” là mâu thuẫn quyền lực vì theo quan niệm của xã hội thời bấy giờ nhân vật nào sở hữu được nhiều đàn bà và tài sản thì nhân vật đó càng có quyền lực. Như vậy, qua việc mô tả trên chúng ta phần nào hình dung được bức tranh xã hội: Khi chế độ tư hữu ra đời, xã hội đã có sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Những mâu thuẫn, bất công đã xuất hiện khá nhiều giữa các mối quan hệ. Chính vì thế mà dân gian đã xây dựng nên hình tượng vị quan toà thông minh, tốt bụng để gửi gắm những ước mơ, hoài bảo của mình về một xã hội tốt đẹp hơn. 5. CÁCH “XỬ ÁN” 5.1. Xử án bằng cách “lấy việc vô lí tương tự để bác bỏ điều vô lí được chấp nhận’’ Như đã nói ở trên, mối quan hệ giữa h g i h ạ và nh hạ h phần lớn là mối quan hệ của kẻ bề trên, kẻ có uy quyền và người thấp cổ bé miệng. Tuy biết phán quyết của của nhân vật gây tai hoạ là vô lí nhưng họ đành phải chịu lép vế, bất lực vì “cái lí của kẻ mạnh”. Cách giải quyết tình huống của “quan toà” cũng hết sức độc đáo. Quan toà đã dùng chính cái đòn của nhân vật gây tai hoạ để triệt hạ nó như lấy lí do đến muộn/ngủ gật vì “ ạ”, “ g i ẻ” hay phịa chuyện vô lí như i h . Vẫn quen thói hống hách, đe nạt kẻ khác, nhân g i h ạ phản ứng trước cái lí của quan toà. Quan toà phản công, lật ngược thế cờ. Nh g i h ạ bất ngờ vì bị phản công và càng bất ngờ hơn bởi đòn phản công của quan toà cũng là đòn mà trước đó nó dùng để triệt hạ h hạ h Một cuộc tạo lí, đấu lí đầy bất ngờ, thú vị. Cũng cái lí đó, trước đây là i – giờ là i “g h A i ” của nhân vật gây tai hoạ. Đúng là “g g g g”. Câu thành ngữ “ ĩ h ” phần nào tạo được tính li kì của “vụ án” này. Dạng này có trong các truyện như “Th giú g i òi ” (dân tộc Cơ ho , “Th và Y Rít” (dân tộc Ê đê , “Th i ” (dân tộc M’nông , “H i h ” (dân tộc Mạ , “R ” (dân tộc Ba na , “C ẻ (dân tộc Chăm , “R ” (dân tộc Ba na , “C ẻ ” (dân tộc Chăm . So với các cốt truyện trên, cốt truyện “Ng i ị ” (dân tộc Kinh có nhiều nét khác biệt. Truyện kể rằng: Tình thách đố Lí quyến rũ vợ mình. Sau ĐẶNG QUỐC MINH DƯƠNG một số “mánh” bị thất bại, Lí bèn mua chuộc bà mụ để biết thông tin “ hía i g ồi h ”. Tình thua cuộc và vu oan, đuổi vợ ra khỏi nhà. Vợ Tình báo thù bằng cách vu oan cho Lí “ 20 i h g ”. Lí chối là “ h h e h g g i h ừ g i i hi”. Vợ tình “phản pháo”: “N h g h e i h ại ă i i h ”. Lí đuối lí, thua cuộc. Như vậy, người vợ là nhân vật bất hạnh kiêm luôn vai trò quan toà. Kiểu kiêm nhiệm này chúng tôi còn thấy trong các cốt truyện “Tan và Man” (dân tộc M’nông , Ch g hú h g i ầ (dân tộc Khơ – Me). 5.2. Xử án bằng cách thi tài Đây là cách xứ án khá phổ biến xưa nay. Theo cách xử án này, quan toà yêu cầu bị đơn – nguyên đơn thử thách nhau bằng cuộc thi tài. Người thắng cuộc sẽ được “trắng án”. Điểm khác biệt ở cuộc thi tài này là quan toà cố sắp xếp cho nhân vật bất hạnh được thi môn sở trường – có lợi cho nó. Cốt truyện “Th i ” (dân tộc Ê đê kể rằng: quan toà thỏ yêu cầu ông thợ săn và cọp thi bắn cung – môn sở trường của thợ săn! Cuộc chiến này tất nhiên kết thúc với phần thắng của người thợ săn. Diễn biến truyện li kì hơn, cuốn hút hơn là cốt truyện “Th i ê i h h i h ” (dân tộc Khơ - me kể rằng: Yêu tinh cướp vợ của người chồng đi lính bằng cách “h hé i h gi g g i hồ g h ú ”. Với nhân vật đặc biệt này, quan toà thỏ đã đưa ra một phép thử lạ đời “ i h i ọ h i (có cổ nhỏ h g i h h hồ g h ”. Khi yêu tinh chui lọt vào trong chai, chân tướng của nó lộ rõ, thỏ bảo người chồng thật “ ú h ồi é h i g sông”. Như vậy, phép biến hoá lúc đầu là phương thế để yêu tinh đạt được mục đích, giờ lại là “gót chân Asin” để kẻ khác trừ khử mình. Một kết thúc có hậu nhưng đầy bất ngờ, bất ngờ trong cách giải quyết. Có thể xem cách phân xử trên là “phép hi i h i h gi ”. Nhắc đến cách xử này làm chúng ta nhớ đến cốt truyện i trong Kinh thánh. Truyện kể rằng: có hai người đàn bà mang hai đứa trẻ một sống một chết, đến nhờ vua Salomon phân xử. Vua ra lệnh cho lính chặt đôi đứa trẻ còn sống chia mỗi người một nửa. Tức thì, một trong hai người đàn bà khóc lớn. Vua xử cho người đàn bà đó là mẹ đứa trẻ còn sống. Như vậy, cách xử án của Vua dựa vào tình cảm giữa “thân chủ” và “vật chứng”. Cốt truyện “Ph tài tình” (dân tộc Kinh cũng tương tự: Hai người đàn bà tranh nhau tấm vải. Quan toà xét xử bằng cách “ e i i hi h ỗi g i ”. Một trong hai bà tiếc của, khóc. Dựa vào đó, quan xử cho bà này thắng cuộc. Cũng là thi tài nhưng cốt truyện “Ba h g hi gh ” (dân tộc Kinh lại đi theo lộ trình ngược: Thi tài nhưng không ai chịu nhường ai nên phải phân xử! Truyện kể rằng: Ba chàng thiện nghệ – kẻ tám lạng, người nửa cân, vừa có tài, vừa có công cứu cô gái thoát chết, đang tranh nhau quyền làm chồng cô gái. Cuối cùng, quan toà đã “nương” vào quan niệm của Nho giáo để giải bài toán này: “ h i g ừ hồ g h “ hụ hụ g h ” B gi h (chàng lặn giỏi – ĐQMD chú ỡ gầ gũi g i thì h i g i h i ê i h h ẽ”. Cốt truyện “Ng i ầ ê ă ” (dân tộc Kinh cũng có “lộ trình” như vậy. TÌM HIỂU KIỂU TRUYỆN PHÂN XỬ TRONG TRUYỆN CỔ CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM 5.3. Xử án bằng cách dùng “mẹo tâm lí” Tâm lí của các nhân vật gây tai hoạ – thủ phạm luôn sợ kẻ khác biết tội lỗi của mình. Nắm được tâm lí đó, các quan toà đã tạo “ hé h ” cho nhân vật gây tai hoạ lộ chân tướng. Cốt truyện “ i h hạ ” và cốt truyện “ hú i ị g ại” (dân tộc Kinh đều kể rằng: quan toà cho những người bị nghi vấn ngậm sợi bấc / sợi cói và bảo “ i / i i i i h g i h hạ !” Có tật giật mình, những kẻ độc ác luôn tìm cách che dấu tội ác của mình nên đã cắn bớt sợi bấc / cói. Chân tướng bị lộ, thủ phạm bị xử phạt. Cũng cách xử trên, nhưng ở cốt truyện “Phân x i h” (dân tộc Kinh thì quan toà lại yêu cầu các ghi hạ “Ta ghe Ph g i hiê g B gi ỗi g i ầ h g ồi ừ hạ ừ i Ph N ú g ẻ gi Ph ẽ h h g ầ ”. Phép thử này đã làm cho chú tiểu thủ phạm “ hỉ h h g ại hé ầ h e ”. Cốt truyện Mèo và cò (dân tộc Thái cũng kể rằng chuột xử cò bằng cách lừa, yêu cầu mèo “ h i g i h ồ g i i T ò i i ò g họ ”. Cò tin lời, chui vào chuồng và bị “bỏ đói ba ngày”. 5.4. Xử án bằng cách yêu cầu nhân vật tái hiện sự việc Cách xử án này có trong các cốt truyện như “Bò h i” “Cọ h ” (dân tộc Chăm , “Đạ ĩ ọ ” (dân tộc Khơ me , “Th g i ừ g hạ ” (Campuchia . Cách xử kiện này như sau: Nhân vật gây tai hoạ gặp nạn (rơi xuống hố / mắc bẫy / mắc cạn và được nhân vật bất hạnh cứu thoát. Nhân vật gây tai hoạ “trở mặt” đòi nhân vật bất hạnh nộp mạng. Quan toà cứu nhân vật bất hạnh bằng cách yêu cầu nhân vật gây tai hoạ tái hiện sự việc. Khi nhân vật gây tai hoạ xuống hố / vào bẫy lại thì quan toà và nhân vật bất hạnh thoát nạn, an toàn bỏ đi. Qua cách xử án trên, chúng ta thấy được sự thông minh, linh hoạt của quan toà. Bởi với một nhân vật hung bạo và gian xảo như cọp / sói, mọi lí lẽ thông thường đều khó được nó chấp nhận. Quan toà đã khéo léo đánh lừa để đưa nhân vật gây tai hoạ vào bẫy – tử huyệt của nó. Qua các kiểu xử án trên, có thể thấy nhân vật quan toà luôn chủ động tạo tình huống, đứng về hay bênh vực cho nhân vật bất hạnh. Ngoài ra, có một cốt truyện mà quan toà cần sự giúp đỡ của thế lực siêu nhiên, đó là cốt truyện Ti h h (dân tộc Kinh . Cốt truyện này kể rằng: sau khi dùng nhiều phép thử để xem ai là yêu tinh nhưng đều thất bại. Cuối cùng theo “mách nước” của thần ở đền Phù Đổng, quan toà đã phải mượn “ iê gọ è Ngọ H g Th g Đ ” để cho yêu tinh lộ nguyên hình. Qua sự phân tích trên, có thể rút ra một số kết luận sau: 1. Kiểu truyện phân xử thuộc nhóm truyện đề cao tư duy duy lí, ca ngợi sự thông minh của nhân vật. Ở kiểu truyện này, hệ thống nhân vật được xây dựng theo trục đối ứng khôn – dại, thông minh – ngu dốt. 2. Nhân vật quan toà xuất hiện khi xã hội có những mâu thuẫn, bất công – tức khi chế độ tư hữu hình thành. Qua việc xây dựng nhân vật này, tác giả dân gian gửi gắm ước mơ về một cuộc sống công bằng, bình đ ng, tốt đẹp hơn. 3. Số lượng cốt truyện này xuất hiện khá nhiều ở dân tộc Kinh. Trong 12 ĐẶNG QUỐC MINH DƯƠNG cốt truyện của dân tộc này, cốt truyện “Phân xử tài tình” và “Nguyễn Khoa Đăng” gồm một chuỗi 3 – 4 vụ xử án. Cốt truyện này có nhiều nét tương đương với truyện Bao công xử án của Trung hoa. Việc xuất hiện nhiều cốt truyện ở dân tộc Kinh cũng chứng tỏ rằng, xã hội của dân tộc Kinh đã phân hoá giai cấp sớm hơn, có nhiều mâu thuẫn hơn. 4. Cách xử kiện của quan toà có thể còn thô sơ, giản đơn nhưng đặt trong tiến trình phát triển của văn học, chúng ta thấy rằng: Các yếu tố thần kì giảm dần và song song với đó là việc tăng dần yếu tố hiện thực và đề cao tư duy duy lí. Đặt trong mối tương quan như vậy, chúng ta mới hiểu được kiểu truyện này như một gạch nối giữa truyện cổ tích loài vật và truyện ngụ ngôn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nông Quốc Chấn (chủ biên (1981 , H h ă Vi N – ă họ g i, quyển hai, Nxb Văn học, Hà Nội. 2. Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2002), Từ i i g ă h h gi i, Nxb Đà Nẵng. 3. Nguyễn Đổng Chi (2000 , h g ổ h Vi N , Nxb Giáo dục, Tp.HCM. 4. Nguyễn Tấn Đắc (2000 , T gi ọ g T e M if, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 5. Nhiều tác giả, T ổ Vi N – Viện Văn học, tập I, II Nxb Đà Nẵng. 6. Hà Văn Thư, Võ Quang Nhơn, Y Điêng (1975 , T ổ hi i Nam, T 1, Nxb Văn hoá, Hà Nội. 7. Viện Khoa học Xã hội (2000 , Truy ổ Vi N , Nxb Khoa học Xã hội, Tp. HCM. 8. Đặng Nghiêm Vạn (biên soạn - 1985), T ổ T g Tây Nguyên, 2 tập, Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Đặng Nghiêm Vạn (2002 , Tổ g ă họ hi Vi N , T 2, Nxb Đà Nẵng. 10. Viện Văn học (2001 , T ổ Vi N , hai tập, Nxb Đà Nẵng.
File đính kèm:
- tim_hieu_kieu_truyen_phan_xu_trong_truyen_co_cac_dan_toc_vie.pdf