Tiếng nói tâm linh trong thơ một số tác giả thuộc thế hệ đổi mới
Tóm tắt: Bài viết trình bày vấn đề tiếng nói tâm linh trong thơ một số tác giả
thuộc thế hệ Đổi mới như Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn,
Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Inrasara,. Các tác giả này mô tả, tiếp cận
tiếng nói tâm linh như một đối tượng nghệ thuật, một phương tiện sáng tạo để đi sâu
vào thế giới bí ẩn của con người. Đó là một thế giới thiêng liêng, bí ẩn, mơ hồ, đối lập
với thế giới thực tại. Khai thác, mô tả tiếng nói tâm linh là cách để các nhà thơ hướng
tới chiếm lĩnh sâu sắc hơn đời sống tinh thần, tư tưởng, nội tâm của con người hiện đại.
Cảm hứng sáng tạo về tiếng nói tâm linh cũng đã góp phần tạo nên những thay đổi rất
đáng chú ý trên phương diện hình thức thơ của các tác giả thế hệ Đổi mới, từ kết cấu,
đến ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu.
đã chết/Những con chưa chết thì chưa sinh ra (Gọi hạc); Anh không thể cất mình lên nổi/Hay chọn đây làm chỗ gửi thân (Tìm gặp). Đặc biệt đáng chú ý là Inrasara, thi sỹ, nhà nghiên cứu, người mang văn hóa Chăm hòa nhập cùng xã hội hiện đại. Inrasara sinh ra và lớn lên tại miền đất với nhiều hình ảnh đền đài, tượng tháp. Inrasara viết về vùng đất Chăm trong niềm say mê, cảm xúc về tình yêu quê hương tha thiết. Inrasara đã giúp người đọc cảm nhận một nền văn P. T. Trịnh / Tiếng nói tâm linh trong thơ một số tác giả thuộc thê hệ Đổi mới 64 hóa Chăm với nhiều hình ảnh đền đài, tượng tháp linh thiêng, một thánh địa qua Tháp nắng (1996), Sinh nhật cây xương rồng(1997), Hành hương em(1999), Lễ tẩy trần tháng tư (2002)... Innasara cho rằng: “Người không học thấy tháp là tháp, người có học thấy tháp vẫn là tháp, chỉ riêng thi sĩ thấy tháp là chim”. Nhà thơ viết: Đôi lúc/nửa đêm/tôi nghe tháp mọc ngang trời/Như giấc mộng như loá mắt/ tháp có mặt/như chớp xé như âm vang/Bóng của tháp như dòng sông ma/trườn qua đêm tối những triều đại/đánh thức ký ức các dân tộc/duyên nợ (hay cả không nợ nần gì) với tháp; với “Tháp hoang” thì;“nổi cộm giữa chiều trời ma quái/ung nhọt trên làn da mềm mại/thảm rừng già xanh”. Về lối viết, các nhà thơ thế hệ Đổi mới đã sử dụng ngôn ngữ, kết cấu, giọng điệu rất đa dạng, biến hóa. Trong thơ Dương Kiều Minh, ranh giới giữa quá khứ và hiện tại; giữa mơ và thực rất mong manh, là sự hòa trộn hiện thực và ký ức. Kết cấu đồng hiện, liên tưởng đa tuyến là kết cấu chủ đạo trong thơ Dương Kiều Minh. Ông thường sử dụng giấc mơ, huyễn tưởng, tưởng tượng để giãy bày tiếng nói nội tâm: Mơ mơ cánh đồng thơ ấu/không không không cả bóng người/không bước chân ngày ngây dại/cậu bé bây giờ về nơi?(Cánh đồng thơ ấu); Con nằm ngủ như nàng công chúa út/lang thang qua những lâu đài/cây lá um tùm/cơ man là gió/cơ man là nắng.../cánh rừng (Giấc mơ). Trí tưởng tượng và những giấc mơ cũng tràn ngập trong thơ Nguyễn Quang Thiều (Trong giấc ngủ muộn, Nhịp điệu châu thổ mới, Âm nhạc...). Những cánh đồng, dòng sông qua trí tưởng tượng trở nên mênh mông, rộng lớn gắn với nhiều ký ức của tuổi thơ. Nguyễn Bình Phương tưởng tượng Nhập chiều, Vọng từ giá sách, Người chèo đò lạnh... là âm vọng của tiếng động, của giọng nói. Thơ Mai Văn Phấn tạo nên một không gian chập chờn giữa thực và ảo, ở đó những hình ảnh, mảng màu được gọi về từ cõi tâm linh. Trong không gian giấc mơ huyền ảo ấy “anh” thấy mình nhảy nhót như con thú hoang: Trong giấc mơ có anh/Bên em không hề biết/Anh xoài mình khắp những tán cây/Con dốc ven hồ, Vạt hoa trinh nữ/Con thú hoang nhảy nhót trong mơ (Em đừng thức giấc). Có thể nói, không gian trong thơ Mai Văn Phấn là không gian mơ hồ, không bến, không bờ và không giới hạn. Nguyễn Lương Ngọc tạo nên một khoảng trống, mơ hồ hóa về nghĩa trong thơ, với các câu thơ rời rạc, có những âm thanh kéo dài, lặp lại: Trong mơ đau thắt ngực/Hình xưa lững thững về... Mơ, mơ/Chân đâu/Mình đâu/Buồn tiên cảm hát chân cầu lưu thủy (Tiên cảm); Yêu không thể giải thoát/A...a...a....A...a...a/Người là người, ta là ta/Ta là người, người là ta/A...a...a....A...a...a (Lời hát). Thơ Dương Kiều Minh dày đặc những từ đặc tả tính chất hư ảo “mơ”, “không”, “ai”: Mơ mơ cánh đồng thơ ấu/không không không cả bóng người (Cánh đồng thơ ấu); Ai gọi tên? Mơ vậy/Người đâu ngờ ngợ quen (Niềm nhớ). Nguyễn Quang Thiều thường sử dụng những thán từ: “Ơi”, “hỡi”; những biện pháp tu từ liên tưởng, so sánh, nghịch dị, nhân hóa: Sông Đáy ơi! Chiều nay tôi trở lại (Sông Đáy). Mai Văn Phấn thường sử dụng cấu trúc thơ tự do, thơ không có vần điệu. Hình thức thể hiện này cho thấy nhà thơ không muốn bị đóng khung trong một khuôn mẫu nào mà tự do tưởng tượng, bay bổng: Những bông lau/Phơ phất/Từ không định/Bay vào hư vô... (Tạ ơn bông lau). Liên tưởng, so sánh cũng là thế mạnh của Mai Văn Phấn, tạo nên sự độc đáo trong thơ ông: Lỡ vin vào bóng mây qua/Lỡ nghe đắm đuối tiếng ma gọi đò (Gom nhặt cuối mùa). Cách sử dụng từ ngữ gây ảo giác, mộng mị; lối diễn đạt gây ám ảnh, mơ hồ; cách dùng điệp từ đặc Trường Đại học Vinh Tạp chí khoa học, Tập 47, Số 4B (2018), tr. 60-66 65 trưng trong thơ Nguyễn Bình Phương: Đom đóm lập lòe bay qua thành phố/Để lại nụ cười mơ hồ xanh (Áo đêm); Tường chói tiếng nói chói (Miêu tả những ngày nắng); Mơ theo mưa mưa dắt anh đi (Chớp mắt Huế)... Dù mỗi nhà thơ có cách kiến tạo câu, đoạn thơ khác nhau, rất biến hóa, nhưng tựu trung, những lối diễn tả đa dạng đó đều có tác dụng gợi lên một không gian hư ảo, lạnh lẽo đến lạ lùng, đến rợn ngợp. Đi sâu vào thế giới tâm linh, các nhà thơ có thể bộc bạch mọi ẩn ức, dằn vặt trong đời sống thực. Đọc thơ Dương Kiều Minh, chúng ta cảm nhận thơ ông tràn ngập nỗi buồn, luôn trằn trọc, dằn vặt, giằng xé cho thấy một đời sống nội tâm không thanh thản. Ông coi đời chỉ là cõi tạm, gửi ở đấy con người thực thể nhưng tâm hồn sống trong hoài niệm, bơ vơ cô độc và không khi nào không buồn. Nỗi buồn và cô độc khiến cái tôi đằm sâu trong triết lý. Phơi trải trên những trang thơ ấy là rất nhiều suy tư về phận người, cõi đời. Nhưng trong nỗi buồn đó, ta bắt gặp trong thơ ông luôn bền bỉ niềm tin hướng về cái đẹp và những giá trị tinh thần trường cửu. Với Nguyễn Quang Thiều, thơ được dựng nên trong một trí tưởng tượng mênh mông hoang dại, giữa những hình ảnh, sự vật như không tồn tại bất kỳ mối liên hệ nào nhưng vẫn có một sự liên kết nội tại đầy bí ẩn. Giữa cái thực và cái ảo, dữ dội và nên thơ, quen thuộc và kỳ dị, mơ hồ và thấu suốt... Tất cả phối trộn vào nhau tạo nên một cảm giác lạ lùng, mơ hồ như sự cất tiếng của giấc mơ đẹp và dữ dội đến ngạt thở. Cũng như Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều luôn hướng về quê hương của mình với nỗi nhớ da diết và tình cảm thành kính của người con tha phương. Thơ Mai Văn Phấn gửi gắm khát vọng về sự tái sinh, vẹn nguyên, thanh khiết, trong sạch và con người trở về bản ngã chân thật. Có lẽ, đó cũng là niềm mong mỏi của ông về sự sống vẹn toàn, giá trị thiêng liêng của hơi thở, của cánh hoa, tiếng chim, nhựa sống, của đất đai, của nước, ánh sáng, bóng tối, cơn mưa, tia nắng. Nguyễn Lương Ngọc không phủ nhận việc hợp nhất giữa sự sống và cái chết, giữa đời sống trần tục và cõi tâm linh, giữa cái phù du và vĩnh cửu. Điều này lý giải tại sao thơ Nguyễn Lương Ngọc luôn có những motip đối lập giữa cái chết và sự tái sinh, sự ra đi và trở về như: “Run rẩy như vừa sinh lại...” (Cảm nhận); “Từ nước sinh ra/Mai có nước ta về” (Từ nước). Với Inrasara, ngủ yên hay còn phiêu bạt trong quá khứ tìm về cội nguồn Chăm, tìm về thánh địa để làm hồi sinh một nền văn minh từng bị lãng quên và lu mờ: Ôi! Linh hồn tháng Mười/mà giấc mơ được tạc từ bóng hoa dại/đã rụng lâu rồi ở đồi tuổi thơ/đêm nay chợt sáng lên run rẩy (Những linh hồn tháng mười). Thơ Nguyễn Bình Phương, Inrasara, Cũng thể hiện được chiều sâu của tâm thức khi đi vào thế giới tâm linh. III. KẾT LUẬN Như vậy, trong phần nội dung chính, chúng tôi đã tập trung giới thuyết về tiếng nói tâm linh trong thơ một số tác giả tiêu biểu của thế hệ Đổi mới, mô tả, phân tích những biểu hiện của tâm linh - như một đối tượng thẩm mỹ đặc thù - trong thơ những tác giả này, trên các phương diện chính như đề tài, cảm hứng, ngôn ngữ, hình ảnh, giọng điệu... Từ những phân tích và lý giải cụ thể, chúng tôi nhận thấy, những tác phẩm văn học viết về thế giới tâm linh chung, thơ tâm linh nói riêng, thường tạo được chiều sâu ám ảnh trong tâm thức người đọc. Những điều thiêng liêng, cao cả hiện lên qua những hình ảnh, biểu tượng, ý niệm thể hiện khát vọng vươn tới thế giới thanh sạch và tĩnh tâm. Để diễn tả tiếng nói tâm linh, ngôn ngữ thơ cũng trở nên mơ hồ, u tối, mờ nhòe, chủ yếu hướng đến việc gợi hơn là kể, tả, về một thế giới không thể mơ hồ và lạ lùng hơn, trong P. T. Trịnh / Tiếng nói tâm linh trong thơ một số tác giả thuộc thê hệ Đổi mới 66 nội tâm con người. Chính vì thế, việc đọc thơ của các nhà thơ thế hệ Đổi mới trở nên khó khăn hơn. Nhưng, từ một góc nhìn khác, đó cũng là một yếu tố tạo nên sức hấp dẫn riêng của những cây bút này trong nền thơ ca Việt Nam đương đại. Tóm lại, khai thác, mô tả tiếng nói tâm linh như một đối tượng thẩm mỹ, các nhà thơ hướng tới cái đích có thể chiếm lĩnh sâu sắc, rộng rãi hơn đời sống tinh thần, nội tâm con người hiện đại và điều đó cũng góp phần tạo nên sự khác biệt khá rõ trên phương diện đề tài, chủ đề, lối viết của các nhà thơ thế hệ Đổi mới so với thế hệ cầm bút trước đó. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Việt Chiến, Thơ Việt Nam tìm tòi và cách tân 1975 - 2015, tái bản lần thứ nhất, NXB Hội Nhà văn, Công ty văn hóa Đất Việt, 2016. [2] Nguyễn Đăng Duy, Văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa - Thông tin, HàNội, 2001. [3] Nguyễn Đăng Điệp, “Văn học và văn hóa tâm linh trong tiến trình lịch sử”, Văn học và văn hóa tâm linh, Kỷ yếu hội thảo, NXB Khoa học xã hội, 2018, tr. 13-25. [4] Trần Đình Sử, “Văn học và văn hóa tâm linh”, Văn học và văn hóa tâm linh, Kỷ yếu hội thảo, NXB Khoa học xã hội, 2018, tr. 41-50. SUMMARY THE VOICE OF SPIRIT IN POEMS OF THE “INNOVATION” GENERATION WRITERS Some writers in the “Innovation” generation used the voice of spirit as an artistic object, a creative medium to access the mystery of the human mind - a sacred, mysterious and ambiguous world opposed to the reality human beings‟ experience. The writers, namely Nguyễn Quang Thiều, Nguyễn Bình Phương, Mai Văn Phấn, Nguyễn Lương Ngọc, Dương Kiều Minh, Inrasara, etc. are supposed to employ their exploration and narration of the voice of spirit to acquire deeper understandings of the modern man‟s spititual life, ideology and internal life as a whole. When it comes to the voice of spirit as a poetic object, it is these same „Innovation‟ generation writers‟ inspiration that made critical contributions to poetry stylistics in terms of word combination, linguistic styles, images and tones, etc.
File đính kèm:
- tieng_noi_tam_linh_trong_tho_mot_so_tac_gia_thuoc_the_he_doi.pdf