Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam

Tóm tắt

Bài viết này tập trung làm rõ khái niệm chất lượng nguồn nhân lực được thể hiện rõ ở ba nhóm tiêu

chí khác nhau, đó là tiêu chí phản ánh tình trạng thể lực; tiêu chí phản ánh trình độ học vấn, chuyên

môn kỹ thuật; và tiêu chí phản ánh phẩm chất đạo đức. Đây là những nhóm tiêu chí đang được dùng phổ

biến cho công tác quản trị nhận sự ở các ngân hàng thương mại trên thế giới. Dựa vào ba nhóm tiêu chí

này, nhóm tác giả cũng phân tích thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở 18 ngân hàng có vốn đầu tư

nước ngoài tại Việt Nam. Từ đó, nhóm tác giả đã đưa ra những đánh giá về chất lượng nguồn nhân lực

ở các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Đây là cơ sở thực tiễn để các cơ quan quản

lý nhà nước và các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đề ra các giải pháp phù hợp cho

ngành ngân hàng

pdf10 trang | Chuyên mục: Quản Trị Nguồn Nhân Lực | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Thực trạng chất lượng nguồn nhân lực trong các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
gân hàng cũng có 
những phẩm chất đạo đức chưa thật sự tốt. Nhìn 
chung, trong những năm gần đây, hoạt động của 
không chỉ riêng nhóm ngân hàng này, mà toàn 
ngành ngân hàng tại Việt Nam đã bắt đầu xuất hiện 
những điểm xấu, cho thấy sự đi xuống của đạo đức 
nghề nghiệp cán bộ ngân hàng. Chính tình hình về 
tội phạm trong hoạt động tín dụng ngân hàng đã 
có những xâm hại nghiêm trọng đến các mối quan 
hệ xã hội, các chính sách kinh tế tài chính của Việt 
Nam, đồng thời làm suy giảm uy tín của ngành 
ngân hàng Việt Nam trên thị trường thế giới; đặc 
biệt là đối với cổ đông nước ngoài khi họ nhận 
thấy sự không an toàn và đáng tin cậy khi đầu tư 
vào lĩnh vực này tại Việt Nam. 
5. Kết luận
Theo kết quả khảo sát cho thấy, cơ cấu nhân lực 
trong nhóm ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài 
nói riêng và ngành ngân hàng Việt Nam nói chung 
đều tương đối trẻ, tức có độ tuổi dưới 30. Cơ cấu 
của nguồn nhân lực trong độ tuổi từ 22 đến 25 tuổi 
chiếm tỷ lệ khoảng 78,04% trong tổng số 173 kết 
quả khảo sát. Đây được xem là độ tuổi của nhóm 
nhân lực được tiếp thu nhiều kiến thức mới, có 
nhiều cơ hội trong việc hoàn thiện và phát triển 
bản thân, đồng thời cũng có những tham vọng, hoài 
bão lớn trong việc phát triển sự nghiệp, và mang 
lại những hướng phát triển, những chiến lược phát 
triển táo bạo cho ngân hàng trong sự cạnh tranh 
khốc liệt của ngành trên thị trường trong nước lẫn 
thế giới. Bên cạnh đó, ngành ngân hàng cũng đang 
sở hữu những nhân lực có nhiều kinh nghiệm trong 
công tác quản lý, điều hành hoạt động ngân hàng. 
Đa số nhóm nhân lực này thuộc độ tuổi trung niên 
trở lên, tức trên 40 tuổi. Xem xét các báo cáo được 
công bố của 18 NHTMCP Việt Nam có vốn đầu 
tư nước ngoài thì nhóm độ tuổi này đa phần thuộc 
nhóm quản lý, họ có nhiều kinh nghiệm, thâm niên 
trong ngành ngân hàng. Chính vì vậy, ngành ngân 
hàng phát triển như hiện nay một phần nhờ vào 
nhóm nhân lực này. Nhóm nhân lực độ tuổi trên 40 
này sẽ truyền dạy những kinh nghiệm về quản lý, 
về cách hoạt động để đảm bảo vượt khủng hoảng 
một cách vững chắc cho nhóm nhân lực trẻ của 
ngành, để 20 đến 30 năm sau, nhóm nhân lực trẻ 
này sẽ kế nhiệm và phát huy những kinh nghiệm đó. 
Trình độ học vấn của nguồn nhân lực trong 
nhóm ngân hàng này tương đối tốt và ổn định qua 
các năm, tức trình độ học vấn của các nhân viên 
khi vào làm trong nhóm ngân hàng này đều phải 
đạt mức “Đại học”, và hầu hết được đào tạo ngành 
kinh tế nói chung. Theo khảo sát được tiến hành 
đối với nguồn nhân lực thuộc nhóm ngân hàng này, 
có 121 người chiếm khoảng 69,94% tổng số người 
được khảo sát có trình độ học vấn là “Đại học”. 
Điều này cho thấy chất lượng nguồn nhân lực của 
nhóm ngân hàng này tương đối tốt, đáp ứng được 
yêu cầu về kiến thức kinh tế nền tảng, tạo bước 
đệm cho việc hoàn thành các công việc được giao 
và phát triển kiến thức, kỹ năng trong suốt thời 
gian làm việc. Không những thế, nguồn nhân lực 
cấp cao của nhóm ngân hàng này đã đạt được trình 
độ chuyên môn nhất định, phù hợp và đáp ứng tốt 
yêu cầu của nhân viên cấp quản lý trong ngân hàng. 
Theo thống kê từ các báo cáo được công bố của 
nhóm 18 NHTMCP Việt Nam có vốn đầu tư nước 
ngoài, các thành viên trong Ban Điều hành, quản lý 
ngân hàng hầu hết đều được đào tạo chuyên ngành 
Tài chính Ngân hàng hoặc Quản trị Kinh doanh tại 
các trường đại học lớn trong nước chuyên đào tạo 
lĩnh vực kinh tế, hoặc được đào tạo tại các trường 
đại học nước ngoài với các bậc Thạc sĩ và Tiến 
sĩ. Việc đào tạo ở nước ngoài đã giúp cho nhóm 
nhân sự cấp cao này tiếp nhận những kinh nghiệm 
quốc tế trong việc điều hành hoạt động ngân hàng. 
Ngoài ra, nhóm nhân sự này còn tham gia các khóa 
đào tạo ngắn hạn chuyên về các kỹ năng lãnh đạo, 
kỹ năng làm việc cũng như kiến thức chuyên sâu 
về lĩnh vực chuyên môn của mình, từ đó áp dụng 
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên 47
Số 14, tháng 6/2014 47
vào điều hành ngân hàng trong nền kinh tế quốc 
dân. Hơn nữa, nhóm nhân lực này có kinh nghiệm 
nhiều năm, thường trên 15 năm trong ngành ngân 
hàng nên họ có những hướng đi chắc chắn và đúng 
đắn cho sự phát triển của ngân hàng, nhất là khi 
ngành ngân hàng trên thế giới đang gặp những khó 
khăn và thử thách. 
Như vậy, trong những năm qua, chất lượng 
nguồn nhân lực thuộc nhóm ngân hàng có vốn đầu 
tư nước ngoài tại Việt Nam đã đạt được những kết 
quả tích cực trước tình hình ngành nói riêng và 
tình hình kinh tế thế giới nói chung có những biến 
chuyển khắc nghiệt. Những thành tựu này cho thấy 
một tương lai mới cho sự phát triển của hệ thống 
ngân hàng Việt Nam với những bước đi khẳng 
định sự vững chắc của ngành này tại Việt Nam khi 
hội nhập vào nền kinh tế thế giới.
Biểu đồ 5. Thống kê số năm kinh nghiệm của 
đối tượng khảo sát
Nguồn: Tổng hợp từ kết quả khảo sát của nhóm 
tác giả
Theo thống kê của bảng khảo sát, ta thấy đa số 
là những nhân viên có kinh nghiệm làm việc trong 
lĩnh vực công tác đạt mức từ một đến hai năm, 
chiếm 49,71% tổng số 173 người được khảo sát, 
tương đương với 86 người. Kế đó là số người được 
khảo sát có kinh nghiệm làm việc dưới một năm, 
đạt mức 66 người, tương đương với tỷ lệ khoảng 
38,15% tổng số 173 đối tượng khảo sát. Điều này 
cho thấy, nguồn nhân lực của nhóm ngân hàng này 
tương đối trẻ, song họ chưa quan tâm đến việc tích 
lũy thêm các kinh nghiệm cần thiết khi tham gia 
vào ngành nghề này. Các đối tượng có số năm kinh 
nghiệm dưới một năm cho đến hai năm; hầu hết 
họ chỉ mới vào làm trong nhóm ngân hàng thuộc 
phạm vi nghiên cứu được một khoảng thời gian 
ngắn, và trước đó họ chưa từng tham gia hay tích 
lũy những kinh nghiệm nào có liên quan. Chính 
vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, chất lượng nguồn 
nhân lực của ngành này chưa thật sự đáp ứng đúng 
và đủ yêu cầu của nhà tuyển dụng, khi nguồn nhân 
lực hiện đang thiếu hụt về kiến thức chuyên môn, 
và khi tuyển dụng mới các ngân hàng đều phải 
tốn các khoản chi phí và thời gian để đào tạo các 
nghiệp vụ cần thiết cho hoạt động của ngân hàng. 
Tham khảo nghiên cứu của Đại học Tài chính 
- Marketing thực hiện vào tháng 5 năm 2012 đối 
với nguồn nhân lực toàn ngành ngân hàng tại 
Việt Nam, thực trạng cho thấy khoảng 70% nhân 
viên ngân hàng là đáp ứng yêu cầu công việc, 30% 
phải đào tạo lại về các nghiệp vụ ngân hàng. Mặt 
khác, khoảng 20 - 30% nhân viên tín dụng chưa 
nắm rõ quy trình thực hiện, thiếu các kiến thức 
pháp lý cần thiết cho việc tạo lập các hồ sơ tín 
dụng, phân tích tài chính cũng như quản lý và xử 
lý nợ. Ngoài ra, khoảng 50 - 60% nhân viên ngân 
hàng yếu các kỹ năng giao tiếp và tổ chức công việc 
(Mai Phương 2012). Điều này đồng nghĩa với việc 
hiện nay nguồn nhân lực ngành ngân hàng đang 
dần xuất hiện những điểm yếu về chất lượng, tức 
chất lượng không tăng kịp số lượng; việc này ảnh 
hưởng rất lớn đến hoạt động của ngân hàng hiện 
tại và tương lai. Không chỉ riêng đối với cấp bậc 
nhân viên trong ngân hàng mà ngay cả các quản lý 
cấp trung và cấp cao trong ngành ngân hàng hiện 
nay vẫn còn thiếu kiến thức về quản lý, thiếu kinh 
nghiệm trong việc điều hành một hệ thống hoạt 
động xuyên suốt như thế nào. Mặt khác, theo số 
liệu thống kê trong số 173 người thuộc phạm vi 
khảo sát, chỉ có 24 người đã hoặc đang tham gia 
các khóa đào tạo ngắn hạn về các nghiệp vụ, kỹ 
năng làm việc liên quan đến lĩnh vực ngân hàng 
tại các trung tâm đào tạo và phát triển nguồn nhân 
lực của trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh 
và Đại học Ngân hàng. Con số này chỉ chiếm một 
tỷ lệ khá nhỏ trong tổng số những đối tượng được 
khảo sát, điều này cho thấy một thực trạng rằng 
hầu hết các nhân viên thuộc nhóm ngân hàng này 
đều chỉ tham gia các khóa tập huấn, đào tạo tại 
ngân hàng trong suốt thời gian công tác, mà chưa 
thật sự quan tâm đến việc bổ sung thêm những 
kiến thức chuyên môn sâu hoặc kỹ năng làm việc 
liên quan đến lĩnh vực mình đang công tác. Chính 
vì vậy, hiện nay, nguồn nhân lực tại các ngân hàng 
có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam có những 
thiếu hụt, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngân 
hàng, đặc biệt là yêu cầu của các cổ đông nước 
ngoài tham gia vào điều hành, quản lý ngân hàng. 
Tóm lại, nhóm ngân hàng có vốn đầu tư nước 
ngoài tại Việt Nam mặc dù có những thành tựu 
Khoa hoïc Xaõ hoäi vaø Nhaân vaên48
Số 14, tháng 6/2014 48
Tài liệu tham khảo
Bộ Y tế. 1997. Quyết định số 1613/BYT-QĐ về việc ban hành “Tiêu chuẩn phân loại sức khỏe, để 
khám tuyển, khám định kỳ” cho người lao động, có hiệu lực từ ngày 15/08/1997.
BTCI & Hay Group. 2012. Tổng thuật tham luận Hội thảo khu vực “Phát triển vốn nhân lực ngành 
ngân hàng tài chính”. Đơn vị tổ chức BTCI, trang 07 - 15.
L.H. 2011. Nguồn nhân lực Việt Nam ngày càng tụt hậu, xem 13.02.2013 <
Home/LaoDong/daidoanket.vn/Nguon-nhan-luc-Viet-Nam-ngay-cang-tut-hau/6624007.epi>
Mai Phương. 2012. Nguồn nhân lực ngân hàng chưa đáp ứng yêu cầu, xem 18.02.2013 <
petrotimes.vn/news/vn/kinh-te/nguon-nhan-luc-ngan-hang-chua-dap-ung-yeu-cau.html>
Phùng, Tuấn. 2012. Phát triển vốn nhân lực ngành ngân hàng - tài chính, xem 18.02.2013<http://
www.baomoi.com/Home/TaiChinh/tapchitaichinh.vn/Phat-trien-von-nhan-luc-nganh-ngan-hang--tai-
chinh/9511881.epi>
Stephen Choo. 2012. Manpower Development Trends - In collaboration with BTCI, BTCI, Hay 
Group, trang 02 - 05.
WB .2012. World Development Indicators 2012, WB, trang 49.
WHO. 2006. Constitution of the World Health Organization - Basic Documents, Forty-fifth edition. 
Supplement, trang 01.
nhất định trong việc xây dựng và phát triển đội 
ngũ nhân sự. Tuy nhiên, trong tình hình kinh tế và 
tài chính những năm gần đây, chất lượng nguồn 
nhân lực của nhóm ngân hàng có vốn đầu tư nước 
ngoài tại Việt Nam vẫn còn những hạn chế về mặt 
kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm và kỹ năng 
làm việc; và có ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt 
động của ngân hàng đó là sự suy thoái của đạo đức 
nghề nghiệp trong nguồn nhân lực đang hoạt động 
tại các ngân hàng.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_chat_luong_nguon_nhan_luc_trong_cac_ngan_hang_co.pdf
Tài liệu liên quan