Tác động của cấu trúc tài chính đến rủi ro tài chính của các doanh nghiệp dịch vụ du lịch niêm yết tại Việt Nam
Tóm tắt: Bài viết này nghiên cứu tác động của cấu trúc tài chính đến rủi ro tài chính của các doanh nghiệp
dịch vụ du lịch niêm yết tại Việt Nam. Số liệu nghiên cứu sử dụng là số liệu thứ cấp dưới dạng bảng
(panel data) được thu thập từ các báo cáo tài chính hằng năm của 21 doanh nghiệp dịch vụ du lịch từ năm
2012 đến năm 2017 với 123 mẫu quan sát. Nghiên cứu sử dụng công cụ phân tích hồi quy tác động cố định
và mô hình hồi quy tác động ngẫu nhiên để ước lượng và kiểm định sự tác động của cấu trúc tài chính đến
rủi ro tài chính của các doanh nghiệp. Kết quả ước lượng cho biết cấu trúc tài chính có tác động đến rủi ro
tài chính, trong đó cấu trúc tài chính ảnh hưởng cùng chiều lên cân bằng tài chính và ngược chiều lên khả
năng thanh toán ngắn hạn của các doanh nghiệp dịch vụ du lịch niêm yết tại Việt Nam.
ượng tác động của cấu trúc tài chính đến khả năng thanh toán Tên biến Phương pháp hồi quy_ Biến phụ thuộc: LIQ FEM REM Robust FEM Hệ số β Prob Hệ số β Prob Hệ số β Prob Hằng số –0,080729 0,8478 –0,122341 0,7578 –0,080729 0,8440 TD –1,467878 0,0000*** –1,305750 0,0000*** –1,467878 0,0000*** TSHH –0,416395 0,0134** –0,589226 0,0000*** –0,416395 0,0617* QMTS 0,105614 0,0077*** 0,110619 0,0027** 0,105614 0,0171*** Kiểm định F 0,000000 0,000000 0,000000 R2 0,894570 0,375734 0,894570 Kiểm định lựa chọn mô hình Kiểm định Hausman 0,0086 Ghi chú: Mức độ ý nghĩa (*): p < 0,1 có ý nghĩa thống kê thấp; (**): p < 0,05 có ý nghĩa thống kê trung bình; (***): p < 0,01 có ý nghĩa thống kê cao. Nguồn: xử lý số liệu thống kê, năm 2018 4.4 Bàn luận Như vậy, kết quả ước lượng của hai mô hình trên cho thấy cấu trúc tài chính được phản ánh thông qua hai chỉ tiêu là hệ số nguồn vốn thường xuyên và hệ số nợ đã có tác động đến rủi ro tài chính. Trong đó, hệ số nguồn vốn thường xuyên có mối quan hệ cùng chiều với sự cân bằng tài chính (với mức ý nghĩa thống kê 0,05). Kết quả này trái ngược với giả thiết 1, và trái ngược với các kết quả nghiên cứu của Phan Thanh Hiệp [2], Masnoon và Seed [18] và Sbeiti [25]. Tuy nhiên, kết quả này lại trùng với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Việt Dũng [1]. Điều này chứng tỏ giai đoạn thu thập dữ liệu đã tác động đến các biến nghiên cứu. Trong giai đoạn 2012–2017, nền kinh tế hồi phục vì vậy số lượng khách du lịch gia tăng, tình hình hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp dịch vụ du lịch cũng có dấu hiệu phát triển. Việc điều chỉnh cấu trúc tài chính bằng cách tăng nguồn vốn thường xuyên sẽ làm tăng cân bằng tài chính, qua đó giảm được rủi ro tài chính. Bên cạnh đó, kết quả cũng chỉ ra rằng hệ số nợ có mối quan hệ ngược chiều với khả năng thanh toán, trùng với giả thiết 2 và các kết quả nghiên cứu của Phan Thanh Hiệp [2], Masnoon và Seed [18] và Sbeiti [25]. Điều này cho thấy nếu các doanh nghiệp điều chỉnh cấu trúc tài chính bằng cách tăng cường sử dụng nợ (đòn bẩy tài chính) sẽ làm giảm khả năng thanh toán, từ đó sẽ làm tăng rủi ro tài chính của các doanh nghiệp du lịch. Hiện nay, tỷ lệ nợ trung bình của các doanh nghiệp du lịch là khá cao 32,21% (Bảng 1), cho thấy các doanh nghiệp vẫn đang đối mặt với rủi ro tài chính nếu tiếp tục tăng cường sử dụng nợ. Đoàn Khánh Hưng, Trần Thị Thu Hiền Tập 128, Số 5A, 2019 102 Kết quả ước lượng cũng cho thấy cấu trúc tài sản có mối quan hệ ngược chiều với sự cân bằng tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Tức là, nếu mức độ đầu tư vào tài sản cố định hữu hình tăng lên thì sự cân bằng tài chính, khả năng thanh toán ngắn hạn sẽ biến động theo chiều hướng giảm xuống, qua đó gia tăng rủi ro tài chính cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, quy mô doanh nghiệp lại có sự tác động cùng chiều đến khả năng thanh toán và ngược chiều đến sự cân bằng tài chính. Đây là đặc điểm của doanh nghiệp dịch vụ du lịch. Khi quy mô doanh nghiệp tăng lên, các doanh nghiệp huy động được các nguồn vốn để đảm bảo được khả năng thanh toán của doanh nghiệp, rủi ro tài chính giảm xuống. Tuy nhiên, nếu quy mô doanh nghiệp tăng lên, tức là tổng tài sản tăng lên thì khó đảm bảo sử dụng đúng thời hạn của nguồn tài trợ để hình thành nên tài sản đúng với thời hạn sử dụng tài sản. Các doanh nghiệp có thể sử dụng các nguồn vốn ngắn hạn để tài trợ hình thành nên tài sản dài hạn, làm khả năng cân bằng tài chính giảm xuống, rủi ro tài chính tăng lên, đặc biệt là trong điều kiện ngành du lịch đang phát triển mạnh mẽ như hiện nay. 5 Kết luận Cấu trúc tài chính của doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng góp phần cho sự phát triển của doanh nghiệp. Tuy nhiên, nếu doanh nghiệp sử dụng cấu trúc tài chính không hợp lý thì rủi ro tài chính sẽ xảy ra trong doanh nghiệp. Bài viết này nghiên cứu sự tác động của cấu trúc tài chính đến rủi ro tài chính của các doanh nghiệp dịch vụ du lịch niêm yết tại Việt Nam trong giai đoạn 2012–2017. Biến độc lập phản ánh cấu trúc tài chính được nhìn nhận dưới hai góc độ gồm thời gian huy động và sử dụng vốn và theo quan hệ sở hữu. Kết quả của mô hình hồi quy cho thấy rằng cấu trúc tài chính có ảnh hưởng đến rủi ro tài chính. Trong đó, cấu trúc tài chính có quan hệ ngược chiều với khả năng thanh toán, và quan hệ cùng chiều với sự cân bằng tài chính của các doanh nghiệp dịch vụ du lịch niêm yết tại Việt Nam. Các doanh nghiệp nên điều chỉnh nguồn vốn bằng cách gia tăng nguồn vốn thường xuyên và giảm nợ trong cơ cấu vốn sẽ làm gia tăng sự cân bằng tài chính và khả năng thanh toán của doanh nghiệp dịch vụ du lịch, qua đó làm giảm rủi ro tài chính mà các doanh nghiệp phải đối mặt. Tài liệu tham khảo 1. Nguyễn Việt Dũng (2018), Tác động của cấu trúc vốn đến rủi ro tài chính của doanh nghiệp xi măng niêm yết tại Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Số 05, 82–87, Trường Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh, Đại học Thái Nguyên. 2. Phan Thanh Hiệp (2016), Các nhân tố ảnh hưởng đến cấu trúc vốn của doanh nghiệp công nghiệp: Nghiên cứu từ mô hình GMM, Tạp chí Tài chính (6/2016), 47–51. Jos.hueuni.edu.vn Tập 128, Số 5A, 2019 103 3. Nguyễn Minh Kiều (2006), Tài Chính Công Ty, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Chương trình giảng dạy kinh tế Fullbright, Nxb. Thống kê. 4. Nguyễn Thanh Liêm (2007), Quản trị tài chính, Trường Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng, Nxb. Thống kê. 5. Hoàng Trọng và Chu Nguyễn Mộng Ngọc (2008), Phân tích dữ liệu nghiên cứu với SPSS, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Hồng Đức. 6. Hoàng Tùng (2011), Phân tích rủi ro tín dụng doanh nghiệp bằng mô hình Logistic, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà Nẵng, 2(43), 193–199. 7. Tổng cục Du lịch (2017), Số liệu thống kê du lịch, ngày truy cập 26/12/2018. 8. Albouy M. (2005), Peut-on encore croire à l’efficience des marchés financiers?, Revue française de gestion, 169–188. 9. Amalendu Bhunia & Somnath Mukhuti (2012), Financial risk measurement of small and medium-sized companies listed in Bombay Stock Exchange, International Journal of Advances in Management and Economics, 1(3), 27–34. 10. Arthur C. W., Michael, L. S., Peter, C. Y. (1998), Risk management and insurance, McGraw-Hill International Editions: Fianance Series, Mc Graw-Hill Publishing Company, United States. 11. Brigham & Houston (2009), Fundamentals of Financial Management (Eleventh Edition), University of Florida, Thomson South-Western. 12. Cao Defang, Zen Muli (2005), An Empirical Analysis of Factor Influencing Financial Risk of Listed Companies in China, Techno economics & Management Research, 6, 37–48. 13. Frank H. K. (1921), Risk, Uncertainty and Profit, Boston: Hart, Schaffner & Marx, Houghton Mifflin Co. 14. Eugene, F. B., & Joel, F. H. (2014), Basics of Financial Management, Essentials of Financial Management, Publisher Salemba Emat, Jakarta. 15. Li Zhea , Liu Ke, Wang Kaibi & Shen Xiaoliu (2012), Research on Financial Risk Management for Electric Power Enterprises, The 2nd International Conference on Complexity Science & Information Engineering, Systems Engineering Procedia 4, 54–60. 16. Jeffrey M. Wooldridge (2010), Econometric Analysis of Cross Section and Panel Data, The MIT Press. Cambridge, Massachusetts, London, England. 17. Jeffrey M. Wooldridge (2013), Introductory Econometrics: A Modern Approach, Michigan State University. 18. Maryam Masnoon và Abiha Saeed (2014), Capital Structure Determinants of KSE Listed Automobile Companies, European Scientific Journal, 10(13), 451–461. Đoàn Khánh Hưng, Trần Thị Thu Hiền Tập 128, Số 5A, 2019 104 19. Mohammad Reza Pourali, Mahmoud Samadi, EnsiehKarkani (2013), The study of the relationship between capital intensity and financial leverage with XI degree of financial distress in companies listed in Tehran Stock Exchange, International Research Journal of Applied and Basic Sciences, 4(12), 3830–3839. 20. Modigliani & H. Miller. (1958), The Cost of Capital, Corporation Finance and the Theory of Investment, The American Economic Review, 48(3), 261–267. 21. Penman, (2001), Financial Statement Analysis of Leverage and How It Informs About Profitability and Price-to-Book Ratios, Review of Accounting Studies, 8, 531–560. 22. Sorana Vătavu (2013), Determinants of corporate debt ratios: Evidence from manufacturing companies listed on the Bucharest Stock Exchange, Timisoara Journal of Economics and Business, 6(20), 99–126. 23. Steven Li (2003), Future trends and challenges of financial risk management in the digital economy, Managerial Finance, 29(5/6), 111–125. 24. Stephen A. Ross, Randolph W. Westerfield & Bradford D. J. (2010), Fundamentals of Corporate Finance (Instructor's Edition) Edition: Ninth, McGraw-Hill/Irwin Series in Finance, Insurance, and Real Estate, Mc Graw-Hill Publishing Company, United States. 25. Wafaa Sbeiti (2010), The Determinants of Capital Structure: Evidence from the GCC Countries, International Research Journal of Finance and Economics, 47, 56–82. IMPACTS OF FINANCIAL STRUCTURE ON FINANCIAL RISKS OF LISTED TOURISM COMPANIES IN VIETNAM Doan Khanh Hung*, Tran Thi Thu Hien School of Hospitality and Tourism, Hue University, 22 Lam Hoang St., Hue, Vietnam Abstract: The paper deals with the impact of financial structure on the financial risks of listed tourism companies in Vietnam. The study uses the data of the 21 listed tourism companies from 2012 to 2017 with 123 samples. Using the panel data with the fix effect model regression and random effect model regression, the authors indicate that the financial structure affects the financial risk of listed tourism companies in Vietnam. The results show a positive impact of the financial structure on the financial balance and negative impact on short-term liquidity. Keywords: financial structure, tourism companies, financial risk
File đính kèm:
- tac_dong_cua_cau_truc_tai_chinh_den_rui_ro_tai_chinh_cua_cac.pdf