Sự phân hóa mức sống dân cư theo tiểu vùng ở Bình Định
Tóm tắt. Mức sống dân cư là một trong những nội dung chính trong quá trình cải thiện,
phát huy “nguồn vốn con người” và hướng đến cuộc sống chất lượng, bền vững; hiện nay
vấn đề nâng cao mức sống dân cư là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong các chiến lược,
chính sách phát triển kinh tế - xã hội của các quốc gia, vùng và lãnh thổ. Bằng phương pháp
phân tích, tổng hợp tài liệu, điều tra bằng bảng hỏi 400 hộ gia đình trên địa bàn, kết quả
nghiên cứu cho thấy mức sống dân cư ở tỉnh Bình Định có sự phân hóa theo lãnh thổ (2 tiểu
vùng) rõ nét, đó là tiểu vùng Đồng bằng và dải ven biển phía Đông, tiểu vùng Trung du và
miền núi phía Tây. Sự phân hóa mức sống dân cư theo tiểu vùng là cơ sở để đề xuất các
giải pháp phù hợp với từng địa phương nhằm cải thiện, nâng cao mức sống trong tương lai.
hiếm 67,4%), hơn nữa điều kiện về cơ sở hạ tầng, giao thông và kết hợp các yếu tố khác về thu nhập, trình độ, ý thức, địa hình, có thể khẳng định mức độ thuận lợi không cao. + Nhóm chỉ tiêu bổ trợ về nhà ở, điện, nước sinh hoạt và VSMT Loại hình nhà ở: Ở tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông có 214/305 hộ có nhà ở kiên cố (chiếm 70,2%), loại hình nhà ở thiếu kiên cố chỉ có 3/305 hộ (chiếm 1,0%) và không có loại nhà đơn sơ, nhà tạm. Ở tiểu vùng TD&MN phía Tây tiêu chí này ở mức thấp hơn, nhà ở kiên cố có 31/95 hộ (chiếm 32,6%), 21/95 hộ có nhà ở thiếu kiên cố (chiếm 22,1%) và vẫn còn 12/95 hộ có nhà đơn sơ, nhà tạm (chiếm 12,6%), đây là những hộ sinh sống ở các xã miền núi khó khăn, vùng đồng bào dân tộc H’rê (An Toàn, An Nghĩa huyện An Lão), Bana, Chăm (Vĩnh Sơn, Vĩnh Kim huyện Vĩnh Thạnh) có đời sống rất khó khăn. Điện: Số hộ gia đình sử dụng điện lưới ở ĐB&DVB phía Đông là 285/305 hộ (chiếm 93,4%), chỉ có 20/95 hộ không có điện lưới (chiếm 6,6%), trường hợp này ở xã đảo Nhơn Châu cách trung tâm TP. Quy Nhơn 24 hải lí. Ở tiểu vùng TD&MN phía Tây, có 76/95 hộ sử dụng điện lưới (chiếm 80,0%), có 11/95 hộ (chiếm 11,6%) không phải điện lưới (sử dụng đầu máy để phát điện) và vẫn có 8/95 hộ sinh sống trên địa bàn chưa có hệ thống điện (sử dụng đèn dầu và bếp củi để chiếu sáng) vì điều kiện địa hình vùng núi, hiểm trở của các làng O5, O2, K6 Vĩnh Kim (5 hộ) và Vĩnh Sơn (3 hộ), cụm từ “đói điện” không còn quá xa lạ với người dân, qua cách vì von của cộng đồng dân cư nơi đây, “đói điện” nên “đói” luôn các nhu cầu thiết yếu về đời sống tinh thần, “đói” thông tin và cả việc phát triển kinh tế cũng “bó tay” [14]. Loại hình hố xí: Tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông có 227/305 hộ gia đình sử dụng hố xí hợp vệ sinh (chiếm 74,4%), có 78/305 hộ sử dụng hố xí không hợp vệ sinh hoặc chưa có nhà vệ sinh (chiếm 25,6%). Ở tiểu vùng TD&MN phía Tây, số hộ sử dụng hố xí không hợp vệ sinh hoặc chưa có nhà vệ sinh chiếm cao hơn số hộ sử dụng hố xí hợp vệ sinh, tương ứng 48/95 hộ (chiếm 50,5%) và 47/95 hộ (chiếm 49,5%) và tương phản đáng kể với tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông. Khi phân tích ở tiêu chí này, có thể nhận thấy mối quan hệ với tiêu chí loại hình nhà ở của các hộ gia đình, thông thường ở các hộ gia đình hố xí hợp vệ sinh gắn liền loại hình nhà ở kiên cố/bán kiên cố để đáp ứng nhu cầu khi MSDC ngày càng tăng. Kết quả kiểm định Chi – Square với Asymp. Sig. (2-sided) = 0,000 giữa biến Nhà ở với biến loại hình hố xí đã đủ độ tin cậy cho tính phụ thuộc này. 2.3. Đánh giá chung Qua phân tích các tiêu chí phản ánh MSDC theo 2 tiểu vùng ở tỉnh Bình Định, dễ dàng nhận thấy được sự khác biệt giữa tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông với tiểu vùng TD&MN phía Tây. Ở tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông, tất cả các tiêu chí gắn với mức tăng (tức là giá trị càng cao chứng tỏ MSDC cao) đều cao hơn tiểu vùng TD&MN phía Tây, trong đó một số tiêu chí cao hơn nhiều lần như TNBQĐN/tháng, tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ, tỉ lệ đi học chung, tương quan số BS và GB/1 vạn dân, các tiêu chí phản ánh điều kiện sống nhà ở kiên cố, điện lưới, hố xí hợp vệ sinh Các tiêu chí gắn với mức giảm (giá trị càng nhỏ chứng tỏ MSDC Nguyễn Đức Tôn 106 càng cao) ở tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông đều thấp hơn so với TD&MN phía Tây, đáng chú ý nhất là tỉ lệ hộ nghèo đa chiều và tỉ suất tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi chênh lệch rất lớn giữa 2 địa phương. Đồng thời, các tiêu chí gắn với TNBQĐN/tháng phản ánh sự phân hóa giàu nghèo như hệ số GINI và chênh lệch 20% nhóm hộ giàu nhất và 20% nhóm hộ nghèo nhất mặc dù chênh lệch không cao nhưng phản ánh khá rõ ràng sự khác biệt giữa các nhóm, bộ phân dân cư trong nội bộ tiểu vùng. Xét về sự biến đổi MSDC qua các tiêu chí thể hiện sự tăng, giảm trong giai đoạn 2010 – 2018, tiểu vùng TD&MN phía Tây một số tiêu chí biến đổi nhanh, trong đó đáng chú ý là tốc độ tăng TNBQĐN/tháng, tỉ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết chữ, tỉ suất tử vong của trẻ em dưới 1 tuổi, các tiêu chí phản ánh điều kiện sống về nhà ở, điện và hố xí hợp vệ sinh, các tiêu chí còn lại ở tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông biến đổi nhanh hơn nhưng mức độ chênh lệch không nhiều so với tiểu vùng TD&MN phía Tây như hệ số GINI, tỉ lệ đi học đúng tuổi Như vậy, nếu so sánh tương quan về MSDC thì có thể khẳng định tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông cao hơn tiểu vùng TD&MN phía Tây, đồng thời sự biến đổi MSDC ở tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông có phần chậm hơn TD&MN phía Tây. Kết hợp giữa dữ liệu thứ cấp và sơ cấp qua kết quả điều tra hộ gia đình thì nhận thấy sự phân hóa thành 2 nhóm cực về MSDC ở tỉnh Bình Định. Trong thời gian tới, cần phải chú ý đến vấn đề giảm dần phân hóa giàu nghèo vì MSDC biến đổi nhanh, sự phân hóa giàu nghèo càng sâu sắc, đặc biệt là tiểu vùng TD&MN phía Tây, nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo (nghèo tuyệt đối) nhưng vẫn còn cách biệt rất xa với các hộ gia đình giàu (nghèo tương đối) vì nền tảng về tư liệu sản xuất trong đời sống còn hạn chế và không bền vững. 3. Kết luận Đảm bảo MSDC hướng đến sự ổn định, bền vững ở các vùng lãnh thổ là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình phát triển KT – XH, nội hàm khái niệm MSDC và các chỉ tiêu đánh giá MSDC ngày càng được mở rộng, từ khía cạnh thu nhập, vật chất là yếu tố chính đến sự đáp ứng các nhu cầu tinh thần, văn hóa, chính trị trong đời sống thường ngày. Bằng các phương pháp nghiên cứu truyền thống kết hợp với hiện đại dưới góc nhìn Địa lí học, có thể nhận thấy sự phân hóa MSDC theo tiểu vùng ở tỉnh Bình Định rất rõ nét, tiểu vùng ĐB&DVB phía Đông với các đặc trưng về sự phát triển kinh tế biển (đặc biệt là công nghiệp và dịch vụ) và sự thuận lợi về các nguồn lực cơ sở hạ tầng, dân cư, nguồn lao động là cơ hội để tạo nên MSDC cao hơn và cách biệt so với tiểu vùng TD&MN phía Tây với đặc trưng về nền kinh tế nông – lâm nghiệp, cùng với đó là những hạn chế nhất định về trình độ văn hóa, cơ sở hạ tầng và khả năng tiếp cận các loại hình dịch vụ Phân tích, đánh giá sự phân hóa MSDC theo lãnh thổ là cơ sở quan trọng để đề xuất các giải pháp cải thiện và nâng cao mức trong tương lai, theo tác giả trong thời gian tới cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo từng địa phương, nâng cao chất lượng nguồn lao động, xây dựng các mô hình kinh tế giảm nghèo, phát triển sinh kế, thực hiện có hiệu quả các chương trình hành động tại địa phương và đầu tư nguồn vốn cho các cộng đồng dân cư là những giải pháp cốt lõi và chủ yếu. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Cục thống kê tỉnh Bình Định, 2019, Niên giám thông kế tỉnh Bình Định năm 2018, Nxb Thống kê. [2] Tổng cục thống kê, 2019, Niên giám thông kê Việt Nam năm 2018, Nxb Thống kê. [3] C. Mác, 2000), Bản thảo kinh tế - Triết học 1844. C. Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, tập 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội Sự phân hóa mức sống dân cư theo tiểu vùng ở tỉnh Bình Định 107 [4] Amartya Kumar Sen, Martha Nussbaum, 1993, The Quality of life. [5] Amartya Sen, 1988, The Standard of Livin, Cambridge University Publisher, UK [6] Nguyễn Như Ý, 2013, Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Đại học quốc gia, TP. Hồ Chí Minh. [7] Hoàng Đức Nhuận. (1995). Một số vấn đề cơ bản về giáo dục dân số” do GS. Hoàng Đức Nhuận. Dự án VIE/94/P01 – Hà Nội. [8] Tổng cục thống kê, 2011 – 2017, Kết quả khảo sát MSDC Việt Nam từ 2010 – 2016, Nxb Thống kê. [9] Ủy ban Nhân dân các huyện, thị xã, thành phố ở tỉnh Bình Định, 2019, Các báo cáo thường niên về Kết quả phát triển kinh tế - xã hội các huyện, thị xã, thành phố giai đoạn 2010 – 2018. [10] Viện nghiên cứu phát triển KT - XH tỉnh Bình Định (2010 - 2019), Hệ thống dữ liệu ở các huyện, TX, TP tỉnh Bình Định (2010 - 2018), TP. Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. [11] Sở Lao động - Thương bình và Xã hội tỉnh Bình Định (2010 - 2019), Tổng hợp kết quả điều tra, rà soát hộ nghèo và cận nghèo ở tỉnh Bình Định từ năm 2010 - 2018, Quy Nhơn [12] Sở Khoa học và Công nghệ Bỉnh Định, 2008, Địa chí thiên nhiên, dân cư và hành chính tỉnh Bình Định, Quy Nhơn. [13] Hoàng Qúy Châu, 2013, Tổ chức lãnh thổ kinh tế tỉnh Bình Định, Luận án Tiến sĩ Địa lí học, Trường ĐHSP Hà Nội. [14] https://nongnghiep.vn/no-luc-dua-dien-luoi-quoc-gia-den-vung-cao-post240012.html [15] Đỗ Thiên Kính, 2015, Xu hướng bất bình đẳng về mức sống ở Việt Nam và khu vực nông thôn giai đoạn 1992 – 2012, Nghiên cứu con người số 5 (80), 3 - 18. [16] Dao Minh Quang, 2004, Rural Poverty in Development Countries: An Empirical Analysis. [17] Dao Minh Quang, 2004, Rural Poverty in Development Countries: An Empirical, Journal of Economic Studies, V.31, No.6, p 500 - 508. [18] Kumar Sen, Martha Nussbaum, 1993, The Quality of life, Oxford. [19] Krueger, Lindahl, 1999, The well – being of nations, the role of Human and Social Capital, education and skills, Organization for Economic Co-operation and Development. ABSTRACT Distribution of people's living standard area in Binh Dinh province Nguyen Duc Ton Faculty of Natural Sciences, Quy Nhon University The people’s living standard is one of the main contents in the process of improving and promoting "human capital" towards a quality and sustainable life; currently, the issue of improving the living standards is one of the most important tasks in socio-economic development strategies and policies of countries, regions, as well as territories. By the method of analyzing, synthesizing documents, surveying with questionnaires of 400 households in the area, the research results show that the living standards of people in Binh Dinh province are differentiated by territory (2 sub regions), which are the eastern plain - coastal sub region and the western highland - mountainous sub region. The differentiation of living standards by sub region is the basis for proposing solutions suitable to each locality in order to improve and raise living standards in the future. Keywords: The people’s living standard, the eastern plain - coastal subregion, the western highland - mountainous subregion, Binh Dinh province.
File đính kèm:
- su_phan_hoa_muc_song_dan_cu_theo_tieu_vung_o_binh_dinh.pdf