So sánh trạng ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Hán

Tóm tắt - Bài viết dựa trên kết quả nghiên cứu trước của chúng tôi về

“một hướng tiếp cận khác về trạng ngữ trong tiếng Việt”, thông qua kết

quả nghiên cứu này chúng tôi lấy tiếng Việt làm cơ sở, tiến hành so

sánh trạng ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Hán. Mục đích thông qua so

sánh có thể tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt về trạng ngữ

của hai ngôn ngữ ở các phương diện như: tính chất, dấu hiệu trạng

ngữ, vị trí cú pháp, cấu tạo, phân loại và các hướng nghĩa của trạng

ngữ. Xét ở góc độ loại hình ngôn ngữ, tiếng Việt và tiếng Hán có nhiều

điểm tương đồng: đều là ngôn ngữ đơn lập, ý nghĩa ngữ pháp chủ yếu

dựa vào trật tự từ và hư từ để biểu đạt; thứ hai đều là ngôn ngữ

SVO.Cả hai phương diện này làm cho trạng ngữ tiếng Việt và tiếng

Hán về đại thể tương đồng, song cũng tồn tại không ít khác biệt.Bài

viết mong muốn có thể cung cấp cho người học, người nghiên cứu

nguồn tài liệu tham khảo liên quan.

pdf6 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 570 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung So sánh trạng ngữ giữa tiếng Việt và tiếng Hán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
n thể 
đều có bích báo. (Hồ Chí Minh) 
(40’) [几乎]各机关,部队,团体都有壁报。 
(41) Nhà tôi và cơ quan tôi làm việc [đều] ở phía cuối 
thành phố. (Nguyễn Minh Châu) 
(41’) 我家和工作的地方[都]在城市最后面。 
(42) Đó là một cô gái mắt đen, [trạc] mười lăm. (nt) 
(42’) 那是一个黑眼睛的姑娘,[大概]十五岁。 
2.3.8. Trạng ngữ ngữ khí 
Thường được cấu tạo bởi các phó từ biểu thị ngữ khí 
như: có lẽ, may màTrạng ngữ ngữ khí, vị trí cú pháp 
tiếng Việt và tiếng Hán giống nhau; có thể đứng sau chủ 
ngữ, câu (43) (43’); phần lớn thường đứng đầu câu, ví dụ: 
(44)-(45) và (44’)-(45’). 
(43) Vợ anh [có lẽ] trạc tuổi gần ba mươi. (Nguyễn 
Minh Châu) 
(43’) 他妻子[也许]快三十了。 
(44) [May làm sao]! Cái con mẹ Huệ nhà tôi lúc ấy cũng 
vừa gánh hai thúng đá (nt) 
(44’)[幸好啊]!那个时候我家小惠也从田外挑着两
副箩筐回来。 
(45) [Bất thình lình] hắn chạy vô gọi em em(nt) 
(45’) [突然间]他跑来叫小妹小妹。 
2.3.9. Trạng ngữ chỉ cách thức – phương tiện 
Chủ yếu được cấu tạo bởi tính từ, động từ song âm tiết, 
từ tượng thanh hoặc cụm giới từ như “bằng”, “với”, 
“theo”, “như” 
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, VOL. 17, NO. 2, 2019 39 
(46) Khuê vất sách [vội vàng] chạy đến xin lỗi. 
(Nguyễn Minh Châu) 
(46’) 阿圭扔完书[匆忙]跑来道歉。 
(47) Cụ để ba đồng xu vào tay Liên... rồi [lảo đảo] bước 
ra ngoài. (Thạch Lam) 
(47’) 老奶奶把三毛钱放在小莲手里后来[踉跄]走出来。 
(48) Tôi từ chối khéo [bằng cái mặt lạnh lùng]. (Nguyễn 
Minh Châu) 
(48’) 我[用一个冷冰冰的脸]委婉拒绝了。 
Vị trí trạng ngữ chỉ phương tiện cách thức giữa tiếng 
Việt và tiếng Hán giống nhau, đều đứng trước vị từ trung 
tâm, ví dụ: (46)-(47) và (46’)-(47’). Cấu tạo bởi cụm giới 
từ, vị trí trạng ngữ tiếng Việt và tiếng Hán khác nhau, tiếng 
Việt thường đứng cuối câu, sau vị từ; trong khi tiếng Hán 
thường đứng trước vị từ, câu (48) và (48’). 
2.3.10. Trạng ngữ tình thái 
Thường được cấu tạo bởi tính từ song âm tiết và một số 
động từ biểu thị tâm lý như nổi giận, tin tưởng, thất vọng 
(49) Nó [ngơ ngác] hỏi tôi: những trái mận biến đâu hết 
rồi? (Nguyễn Nhật Ánh) 
(49’) 他[疑惑地]问我那些李子都在那里呢? 
(50) Anh lấy thuốc lá mời Khuê hút [một cách hào 
phóng]. (Nguyễn Minh Châu) 
(50’) 他拿出烟来[大方地]请阿圭抽。 
(51) [Lễ phép], mẹ con chị Dậu cùng cúi đầu chào.(Ngô 
Tất tố) 
(51’)酉姐母女俩[礼貌地]一起低着头(向霸建夫妇)
打招呼。 
Trong tiếng Việt vị trí trạng ngữ tình thái thường linh 
hoạt hơn so với tiếng Hán, có thể đứng trước vị từ như câu 
(49), cuối câu ví dụ (50), cũng có thể đứng đầu câu ví dụ 
(51); trong khi tiếng Hán đa phần thường đứng trước vị từ, 
không thể đứng cuối câu hoặc đầu câu, ví dụ (49’)-
(51’).Trạng ngữ tình thái thường mang tính miêu tả, biểu 
thị trạng thái, tư thế, tâm trạngcủa chủ thể khi thực hiện 
hành vi động tác do đó trong tiếng Hán loại trạng ngữ này 
thường phải dùng dấu hiệu trạng ngữ “de”; đối với loại này 
tiếng Việt cũng sử dụng dấu hiệu trạng ngữ “một cách” 
nhưng không bắt buột như trong tiếng Hán. 
Có thể thấy, vị trí các loại trạng ngữ tiếng Việt và tiếng 
Hán phần lớn tương đồng, thường đứng trước vị từ trung 
tâm. Tuy nhiên, trong một số trường hợp trạng ngữ được cấu 
tạo bởi cụm giới từ, tiếng Việt thường phải đứng sau vị từ. 
2.4. Về chỉ hướng ngữ nghĩa của trạng ngữ 
Chỉ hướng ngữ nghĩa của trạng ngữ, về mặt cú pháp, 
trạng ngữ phụ gia cho vị từ trung tâm nhưng về mặt ngữ 
nghĩa có một số trạng ngữ không phát sinh quan hệ trực 
tiếp với vị từ mà phát sinh quan hệ với một thành phần danh 
từ nào đó trong cấu trúc, chỉ hướng ngữ nghĩa thành phần 
danh từ. Vì vậy, Trạng ngữ về mặt ngữ nghĩa có thể chỉ 
hướng nhiều thành phần cú pháp: Chỉ hướng vị từ trung 
tâm, chỉ hướng chủ ngữ, chỉ hướng nhiều thành phần khác. 
2.4.1. Chỉ hướng vị từ trung tâm 
Trạng ngữ và trung tâm ngữ là hai thành phần cấu tạo 
trực tiếp nằm trên cùng một tầng cấu trúc; giữa hai thành 
phần này vừa có quan hệ cấu trúc, vừa có quan hệ ngữ nghĩa, 
lúc này quan hệ ngữ nghĩa và quan hệ cấu trúc nhất quán, là 
một cấu trúc cú pháp và ngữ nghĩa tương ứng. Đây là loại 
thường gặp nhất trong tiếng Việt và tiếng Hán. Ví dụ: 
(52) Trăng [từ từ] lên cao. (Nam Cao) 
(52’) 月亮[渐渐地] 升高。 
(53) Tôi [đã] thôngđiếu và bỏ thuốc rồi. (nt) 
(53’) 我[已]把烟袋收藏起来并戒了烟。 
(54) Lượng [hết sức] xông xáo nhưng cũng khôn ngoan 
rất mực. (Nguyễn Minh Châu) 
(54’) 阿亮[非常] 机敏同时也聪明得很。 
Trạng ngữ chỉ hướng vị từ chủ yếu do phó từ, từ tượng 
thanh, hoặc vị từ cấu tạo nên. Trong các câu trên, ngữ nghĩa 
trạng ngữ của tiếng Việt và tiếng Hán đều chỉ hướng vị từ 
trung tâm. Trạng ngữ “từ từ” trong câu (52) và “渐渐” 
trong (52’) chỉ hướng vị từ “lên cao” và “升高”, “đã” trong 
câu (53) và “已” trong (53’) chỉ hướng vị từ “thông” và “
藏”, “hết sức” trong câu (54) và “非常” trong (54’) chỉ 
hướng vị từ “xông sáo” và “机敏”. 
2.4.2. Chỉ hướng chủ ngữ 
Trạng ngữ chỉ hướng chủ ngữ (chỉ phát sinh quan hệ 
ngữ nghĩa với chủ ngữ) cũng là loại thường gặp trong tiếng 
Việt và tiếng Hán. Trạng ngữ và chủ ngữ nằm ở những tầng 
cấu trúc khác nhau trong câu nhưng có liên hệ về mặt ngữ 
nghĩa, trạng ngữ miêu tả tâm trạng, thái độ, biểu cảm, tư 
tháicủa chủ thể khi thực hiện động tác. Ví dụ: 
(55) Thùy [niềmnở] bắt tay từng người một. (Nguyễn 
Minh Châu) 
(55’) 小垂 [热情地]跟每个人握手。 
(56) Nó [thất vọng] nhìn xuống bàn tay mình 
(Nguyễn Nhật Ánh) 
(56’) 他[失望]地看着自己的手。 
(57) [Hoảng hốt], chị Dậu bồng cả hai con đứng dậy. 
(Ngô Tất Tố) 
(57’) 酉姐[恐慌地]抱着两个孩子站了起来。 
Trong câu (55), (55’) trạng ngữ “niềm nở” “热情” cùng 
vị từ trung tâm “bắt tay” “握手” nằm ở cùng một tầng cấu 
trúc, nhưng ngữ nghĩa của nó lại chỉ hướng chủ ngữ “Thùy” 
“小垂” ở tầng cấu trúc trên, miêu tả thái độ khi “bắt tay” “
握手” của “Thùy” “小垂”. Câu (56), (56’) trạng ngữ “thất 
vọng” “失望” chỉ hướng chủ ngữ “nó” “他”, miêu tả trạng 
thái tâm trạng của chủ ngữ khi thực hiện hành vi động tác. 
Trạng ngữ “hoảng hốt” “恐慌” trong câu (57), (57’) chỉ 
hướng chủ ngữ “chị Dậu” “酉姐”, miêu tả tâm trạng khi 
“bồng” hai con của chủ ngữ. 
Do loại trạng ngữ này miêu tả chủ ngữ, vì vậy giữa nó 
và chủ ngữ tồn tại quan hệ trần thuật và bị trần thuật, đặc 
điểm này tiếng Hán cũng tương tự tiếng Việt. Ví dụ: 
Thùy niềm nở bắt tay từng người một. 
→ Thùy rất niềm nở. 
小垂热情地跟每个人握手。→小垂很热情 
40 Nguyễn Thị Minh Trang 
Nó thất vọng nhìn xuống bàn tay mình 
→ Nó thất vọng. 
他失望地看着自己的手。→他失望。 
Hoảng hốt, chị Dậu bồng cả hai con đứng dậy. 
→ Chị Dậu hoảng hốt. 
酉姐恐慌地抱着两个孩子站了起来。→酉姐恐慌. 
2.4.3. Chỉ hướng nhiều thành phần 
Tiếng Việt và tiếng Hán đều có trạng ngữ ngữ nghĩa của 
nó có thể chỉ hướng mấy thành phần trong câu, nghĩa là 
một trạng ngữ đồng thời miêu tả trạng thái của mấy thành 
phần ở những tầng khác nhau, ví dụ: 
(58) Cô [cẩn thận] kiểm tra lại sổ sách, các bài giảng. 
(Nguyễn Minh Châu) 
(58’) 她认真地再检查簿籍、教案。 
(59) Vợ ở trong nhà vỗ nhịp, [mơ mơ màng màng] 
ngâm nga dân ca. (Truyện ngắn) 
(59’)妻在屋里拍着闰儿,[迷迷糊糊]地哼着眠歌。 
(60) Tràng [ngoan ngoãn] đáp lời mẹ. (Kim Lân) 
(60’)阿长[温顺地] 回答妈妈。 
Trạng ngữ “cẩn thận” “认真” trong câu (58), (58’) vừa 
nói rõ phương thức động tác “kiểm tra” “检查” vừa miêu 
tả thái độ của chủ ngữ “cô” “她”. Câu (59), (59’) trạng ngữ 
“mơ mơ màng màng” “迷迷糊糊” nói rõ phương thức 
“ngâm nga” “哼” của vị từ trung tâm đồng thời cũng miêu 
tả trạng thái tinh thần của chủ ngữ. Câu (60), (60’) trạng 
ngữ “ngoan ngoãn” “温顺” vừa nói lên phương thức động 
tác “đáp” “回答” vừa miêu tả thái độ của chủ ngữ. 
Qua phân tích trên có thể thấy, chỉ hướng ngữ nghĩa 
trạng ngữ trong tiếng Hán và tiếng Việt đại thể giống nhau, 
có thể chỉ hướng vị từ trung tâm, chỉ hướng chủ ngữ và 
nhiều thành phần khác trong câu. Khi trạng ngữ chỉ hướng 
vị từ trung tâm thì quan hệ chỉ hướng ngữ nghĩa và thành 
phần bị phụ gia, phụ gia của bình diện cú pháp nhất quán, 
là một cấu trúc cú pháp và ngữ nghĩa tương ứng. Khi trạng 
ngữ chỉ hướng chủ ngữ hoặc nhiều thành phần khác thì 
quan hệ chỉ hướng ngữ nghĩa và thành phần bị phụ gia, phụ 
gia của bình diện cú pháp không nhất quán, là một cấu trúc 
cú pháp và ngữ nghĩa không tương ứng. 
3. Kết luận 
Thông qua so sánh có thể thấy tính chất trạng ngữ tiếng 
Việt và tiếng Hán giống nhau, đều là thành phần phụ gia 
cho vị từ, có tác dụng hạn định hoặc miêu tả. 
Tiếng Việt và tiếng Hán đều có dấu hiệu trạng ngữ, 
“một cách” là dấu hiệu trạng ngữ trong Tiếng Việt, tiếng 
Hán dùng trợ từ “地” “de”. Cách sử dụng “một cách” và 
“de” phần lớn là giống nhau, chỉ có trạng ngữ mang tính 
miêu tả mới dùng dấu hiệu trạng ngữ (miêu tả chủ thể của 
hành động khi thực hiện hành vi động tác hoặc miêu tả 
hành vi động tác), còn các loại trạng ngữ mang tính hạn 
định không cần dùng. Điểm khác nhau là trong tiếng Việt 
trạng ngữ mang “một cách” thường đứng cuối câu, trong 
khi tiếng Hán luôn đứng trước vị từ. 
Cấu tạo trạng ngữ của tiếng Việt và tiếng Hán khá đa 
dạng, có thể do phó từ, danh từ, đại từ, tính từ, động từ, từ 
tượng thanh, cụm từ cố định, cụm giới từ cấu tạo nên. 
Có thể thấy vị trí của các loại trạng ngữ giữa tiếng Việt 
và tiếng Hán phần lớn là tương đồng, thường đứng trước vị 
từ, có khi đứng đầu câu. Tuy nhiên cũng có trường hợp 
khác nhau như trạng ngữ được cấu tạo bởi cụm giới từ: 
“bằng”, “với”, “như” tiếng Việt thường đứng sau 
vị từ. Trạng ngữ tình thái trong tiếng Việt thường linh hoạt 
hơn tiếng Hán, có thể có 3 vị trí, đứng trước vị từ trung 
tâm, cuối câu hoặc đầu câu; trong khi tiếng Hán thường chỉ 
có 1 vị trí là trước vị từ. Chỉ hướng ngữ nghĩa trạng ngữ 
giữa tiếng Việt và tiếng Hán đại thể tương đồng. Trạng ngữ 
có thể chỉ hướng vị từ trung tâm, chỉ hướng chủ ngữ và 
nhiều thành phần khác trong câu. 
Chú thích: Để thuận tiện trong cách trình bày, bài báo 
sử dụng các ký hiệu sau đây: 
Trạng ngữ [ ]; Trung tâm ngữ _____ 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Thị Minh Trang, “Một hướng tiếp cận khác về trạng ngữ trong 
tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 12, 2017, 31-36. 
[2] 阮氏明庄,魏金光, “越南语与汉语状语语序对比分析”, 3, 辽宁
工业大学学报,2012, 27-29. 
[3] 潘氏霞, 汉越语状语语序的对比研究, 广西师范大学, 2007. 
[4] 唐燕飞,越南学生习得汉语状语的偏误分析,广西民族大学, 2007. 
[5] 邢福义,现代汉语. 北京: 高等教育出版社, 2004. 
(BBT nhận bài: 01/02/2019, hoàn tất thủ tục phản biện: 25/02/2019) 

File đính kèm:

  • pdfso_sanh_trang_ngu_giua_tieng_viet_va_tieng_han.pdf