Phê bình phân tâm học ở Việt Nam - Nhìn từ phương diện thực hành

TÓM TẮT

Bài báo khảo sát và đánh giá một cách tổng quan về tình hình nghiên cứu, phê bình văn

học từ góc độ phân tâm học ở Việt Nam từ đầu thế kỷ 20 đến nay từ phương diện thực

hành. Trong đó, người viết chú trọng các giai đoạn 1930-1945 (phân tâm học bắt đầu hiện

diện trong sáng tác và phê bình văn học ở Việt Nam), 1945-1975 (Phân tâm học có vị trí

nhất định trong sáng tác và phê bình văn học ở miền Nam), 1986 đến nay (sự tái hiện của

phân tâm học trong sáng tác và phê bình văn học với sự gạn lọc và chuyên sâu hơn).

pdf10 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 228 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Phê bình phân tâm học ở Việt Nam - Nhìn từ phương diện thực hành, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ó là các biểu tượng gốc. Hơn nữa, ông còn phát hiện và chỉ ra các “biểu 
tượng phái sinh” như là những sáng tạo riêng của Xuân Hương nữ sĩ [6]. Nhà phê bình đã thực 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế Tập 3, Số 2 (2015) 
17 
sự thuyết phục người đọc về những kiến giải, lập luận của mình bằng sự xâu chuỗi thế giới biểu 
tượng trong thơ Hồ Xuân Hương và buộc người đọc tin rằng có một vô thức tập thể được lưu 
giữ qua tâm thức nhà thơ đầy nữ tính và cũng rất cá tính này. Trên nền tảng phân tâm này, nhà 
phê bình đã lý giải hiện tượng ngôn từ độc đáo của Hồ Xuân Hương với các động từ, tính từ, 
trạng từ, từ láy đầy sức gợi tả và các kiểu chơi chữ đầy hàm nghĩa, tạo sự lấp lững hai mặt và 
tính liên tưởng. Không dừng lại ở việc phân tích hệ thống biểu tượng, thế giới ngôn từ, Đỗ Lai 
Thúy còn chứng minh ở Hồ Xuân Hương gắn với triết lý phồn thực là tiếng cười của niềm vui 
sống, như là một bản tính tự nhiên ở người đàn bà công khai phản ứng lại những cấm kỵ tính 
dục trong xã hội lúc bấy giờ. 
Nhìn chung, cách triển khai, kết nối các bình diện khác nhau trong cấu trúc thơ Hồ 
Xuân Hương của Đỗ Lai Thúy chứng tỏ một cái nhìn toàn diện và tinh tế trên cơ sở một nhãn 
quan văn hóa sâu rộng của một nhà phê bình tâm huyết. 
Trước khi viết Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực, Đỗ Lai Thúy đã từng vận dụng 
phong cách học và thi pháp học để phê bình Thơ Mới. Tuy nhiên, ông có vẻ tâm đắc với phê 
bình phân tâm học. Hơn nữa, ông muốn chứng minh tính hiệu năng của phương pháp phê bình 
mà nhiều người thường e ngại này. Bút pháp của ham muốn là một công trình phê bình khác của 
Đỗ Lai Thúy viết về một số tác gia thơ Việt từ cái nhìn phân tâm học. Ngoài phần viết về thơ 
Hồ Xuân Hương (phần lớn đã in trong Hồ Xuân Hương – hoài niệm phồn thực), 
Đỗ Lai Thúy tiếp cận thế giới thơ của năm vườn thơ còn nhiều ẩn ngữ: Nguyễn Gia 
Thiều, Bà Huyện Thanh Quan, Chế Lan Viên, Hoàng Cầm, Xuân Diệu. Ứng với mỗi tiểu thế 
giới thơ của họ, nhà phê bình dùng một chìa khóa riêng/một bình diện phân tâm tương thích để 
giải mã những bí ẩn vô thức đằng sau các con chữ. Với Nguyễn Gia Thiều (qua Cung oán ngâm 
khúc), nhà phê bình cảm nhận hình tượng người cung nữ chẳng qua chỉ là cái bóng của nhà thơ. 
Cái bóng này do nhà thơ tưởng tượng ra để tự đối thoại với cái tôi cô đơn của mình. Đỗ Lai 
Thúy phát hiện ra “một thế giới trập trùng bóng” trong khúc ngâm đầy ai oán của Nguyễn Gia 
Thiều. Và ở đây cũng thể hiện cái nhìn hư vô của thi nhân: “Trăm năm còn có gì đâu/ Chẳng 
qua một nấm cỏ khâu xanh rì”. Với Bà Huyện Thanh Quan (qua những bài thơ đích thực của 
bà), Đỗ Lai Thúy chỉ ra nỗi niềm hoài cổ của nữ thi sĩ. Ứng với cái tình hoài cổ này là một thế 
giới đổ nát, tàn tạ cả hai cấp độ không gian và thời gian, tức là, mặc dù mang tâm trạng hoài Lê, 
nhưng từ trong vô thức Thanh Quan ẩn chứa một xung năng mà phân tâm học gọi là bản năng 
chết (thanatos). Với Hoàng Cầm (qua tập thơ Về Kinh Bắc), Đỗ Lai Thúy đã xâu chuỗi những 
câu thơ, bài thơ có nhiều từ mờ nghĩa, nhòe nghĩa cùng với hình ảnh người chị thường xuất hiện 
như một đối tượng trữ tình trong tập thơ của người thơ đa tình để tìm một kết nối. Và cái chìa 
khóa mà nhà phê bình tìm được để giải mã ẩn ngữ thơ Hoàng Cầm là mặc cảm Oedipe. Đỗ Lai 
Thúy lý giải có sự chuyển vị từ tình yêu người mẹ (bị bố bỏ rơi) đến tình yêu người chị tên Vinh 
cùng quê và cũng có những đặc điểm giống mẹ (người phụ nữ vùng quan họ hát hay, duyên 
dáng và xinh xắn), nhưng do không thể lấy người ta làm vợ được nên cậu bé Hoàng Cầm luôn 
“rơi vào tình trạng nước đôi, vừa yêu vừa ghét, vừa thương mến vừa hờn giận, vừa muốn quên 
vừa mong nhớ”. Do vậy, Về Kinh Bắc chỉ là một giấc mơ của thi nhân. 
Phê bình phân tâm học ở Việt Nam - nhìn từ phương diện thực hành 
18 
Với Chế Lan Viên (qua Điêu tàn, Ánh sáng và phù sa, Hoa ngày thường – chim báo 
bão và Di cảo), tác giả Bút pháp của ham muốn đã nhìn thấy những mâu thuẫn, đối lập trong tư 
duy nhà thơ. Bằng dữ liệu Chế Lan Viên “tự chỉnh huấn” mình rất mạnh thời xây dựng chủ 
nghĩa xã hội, nhà phê bình cảm nhận trong thơ ông có một “mặc cảm tội lỗi”. Ánh sáng và phù 
sa là “đầy những nhiêu khê, băn khoăn, giằng xé”. Đỗ Lai Thúy cho rằng, trường hợp Chế Lan 
Viên cũng giống như tháp Bayon bốn mặt, nhà thơ có lúc phải “ngụy trang”. Thơ là một hình 
thức ngụy trang. Tuy nhiên, lấy Chế Lan Viên làm đối tượng nghiên cứu sự phân tâm có thể là 
quá khó khăn đối với nhà phê bình, vì nhìn bên ngoài, nhà thơ này hiện diện ở phần hữu thức 
quá rõ rệt, bởi vậy, Đỗ Lai Thúy đành thúc thủ bằng sự tự thú về giới hạn của người ngoài cuộc: 
“Ai dám đoán chắc là mình đã hiểu hết được những sâu kín của nghệ thuật, của tâm hồn con 
người, nhất là nghệ sĩ” [7, tr. 224]. Với trường hợp Xuân Diệu, cách tiếp cận phân tâm học thế 
giới nghệ thuật của “ông hoàng thơ tình” cũng đầy mạo hiểm. Đỗ Lai Thúy đã từng viết khá 
thuyết phục về Xuân Diệu trong Mắt thơ từ cách tiếp cận phong cách học. Dường như, với vườn 
thơ rộng rinh như Xuân Diệu, một phương pháp tiếp cận nào đó cũng đều nhỏ hẹp. Và Đỗ Lai 
Thúy tiếp tục dùng chìa khóa phân tâm để mở tiếp cánh cửa tâm hồn bí ẩn của tác giả Thơ thơ, 
Gửi hương cho gió Đi tìm tình yêu đích thực trong thơ Xuân Diệu, nhà phê bình phải vận 
dụng kết hợp những cứ liệu ngoài đời (hoàn cảnh cá nhân, thân phận đời tư, quan hệ bạn bè) với 
thi liệu trong thơ để phán đoán, nhận diện. Cuối cùng, nhà phê bình nối kết các mệnh đề: Xuân 
Diệu là người đồng tính (nhiều cứ liệu được dẫn giải) – tình yêu trong thơ Xuân Diệu là tình yêu 
của người đồng giới, một kiểu Tình trai, được diễn tả đầy tha thiết, bình thường khó phân biệt là 
tình yêu của người đồng giới hoặc dị giới. Con người thi nhân rơi vào cảnh ngộ như Xuân Diệu 
luôn mang tâm trạng cô đơn, vừa là tâm trạng của nghệ sĩ lãng mạn, vừa là tâm thế của cá nhân, 
ở Xuân Diệu có cả sự cô độc. Vì thế, tác giả Thơ thơ, Phấn thông vàng rất “khát khao giao 
cảm với đời” (Nguyễn Đăng Mạnh) và muốn hòa hợp thể xác. Đó là những logic được kết nối 
trong phân viết về Xuân Diệu từ góc nhìn phân tâm học của Đỗ Lai Thúy. Chắc chắn, đúng với 
một phần thơ của Xuân Diệu ở những bài được trích dẫn. Tuy nhiên, ở nhiều bài thơ khác thì 
sao? Trong bếp núc của các nhà thơ, không phải bài thơ tình nào nhà thơ cũng tự biểu hiện 
mình, vì thơ có khi là sự nhập vai vào tâm trạng của người khác để viết ra. Thành ra, phân tâm 
học trong trường hợp nan giải này, chắc cũng chỉ mở được một lối vào vườn thơ Xuân Diệu mà 
thôi (?). 
Tóm lại, dù có đôi chỗ còn băn khoăn, nhưng nhìn chung, các công trình phê bình phân 
tâm học của Đỗ Lai Thúy đã thể hiện tính hiệu năng của phương pháp với những đối tượng 
tương thích, và quan trọng hơn nữa, nó cho thấy, ông là một nhà phê bình mạo hiểm và có khả 
năng khai phá những nơi tưởng chừng đã cạn kiệt. 
Nhìn lại, lịch sử phê bình phân tâm học ở Việt Nam – một cái nhìn tổng quan – có thể 
nói rằng không phải sự giới hạn nằm ở phương pháp mà là ở nhà phê bình. Phê bình phân tâm 
học có thể khó thích hợp trên một phổ diện rộng lớn nhưn một số phương pháp phê bình khác, 
nhưng không có cái nào thay thế được nó khi khám phá phần vô thức trong sáng tạo của nhà 
văn. Người viết bài này cũng đã từng nghiên cứu ảnh hưởng của phân tâm học trong sáng tác 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học Huế Tập 3, Số 2 (2015) 
19 
Vũ Trọng Phụng (Bài đăng trên Tạp chí Văn học, số 4 năm 1997), tuy nhiên, ở dạng “thứ danh”. 
Trong bài, chúng tôi xem xét khả năng vận dụng phân tâm học trong nghệ thuật phân tích tâm lý 
nhân vật của nhà văn và đã khẳng định đóng góp của Vũ Trọng Phụng về lĩnh vực này, cũng là 
một cách phản biện lại những nhận định không chính xác trước đó về ông. Mặc dù, hướng 
nghiên cứu phân tâm học “thứ danh” này hiện nay khá phổ biến, nhưng nếu xác định lựa chọn 
phương pháp phê bình phân tâm học, thì các nhà phê bình cũng nên thử sức với dạng “chính 
danh”, vì nó có thể làm hiển lộ những vùng mờ nấp sau nhưng ẩn ngữ vô thức của nhà văn./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Trong sách Bàn về các cuộc đấu tranh tư tưởng trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại 1930-1945, 
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1971, Vũ Đức Phúc sau khi nêu một số chi tiết bản năng trong tác 
phẩm Vũ Trọng Phụng đã xếp tác giả Giông tố, Số đỏ là “nhà văn tự nhiên chủ nghĩa tiêu biểu”. 
[2]. Xem trích dẫn của Đỗ Lai Thúy trong sách Bút pháp của ham muốn (2009), NXB Tri thức, Hà Nội. 
[3]. Đỗ Lai Thúy (1999). “Phân tâm học và phê bình văn học”, in trong tập tiểu luận Từ cái nhìn văn 
hóa, NXB Văn hóa dân tộc, 1999, tr. 149-150. 
[4]. Xem Nguyễn Văn Trung (1968). Lược khảo văn học, tập 3, NXB Nam Sơn, Gài Gòn. 
[5]. Xem Trần Hoài Anh (2009). Lý luận – phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975, NXB Hội 
nhà văn, Hà Nội, tr. 185. 
[6]. Đỗ Lai Thúy đã chứng minh các biểu tượng phái sinh trong thơ Hồ Xuân Hương như: cái quạt, 
miệng túi càn khôn (âm vật), con suốt, đầu sư, cán cân, dao cầu (dương vật), dệt cửi, châm, húc 
(hành động tính giao). 
[7]. Đỗ Lai Thúy (2009). Bút pháp của ham muốn, NXB Tri thức, Hà Nội. 
Phê bình phân tâm học ở Việt Nam - nhìn từ phương diện thực hành 
20 
PSYCHOANALYSTIC CRICITISM IN VIETNAM, FROM PRACTICALLY 
RESEARCH 
Nguyen Thanh 
Department of Literature and Linguistics, Hue University of Sciences 
Email: nguyenthanh27@hotmail.com 
ABSTRACT 
This paper surveys and assess an overview situation of research and literary criticism from 
the perspective of psychoanalysis in Vietnam from the early 20th century to now, from 
practical aspects. In ưhich, the author focus on the period: 1930-1945 (psychoanalysis 
begins presence in the writing and literary criticism in Vietnam), 1945-1975 
(Psychoanalysis occupies a certain position in writing and literary criticism in the South of 
Vietnam), after 1986 (the representations of psychoanalysis in writing and literary criticism 
with more depth and refinement). 
Keywords: Psychoanalysis, Literary Cricitism, Freud. 

File đính kèm:

  • pdfphe_binh_phan_tam_hoc_o_viet_nam_nhin_tu_phuong_dien_thuc_ha.pdf