Phân tích mô hình quản trị vốn bằng tiền tối ưu trong các doanh nghiệp vận tải biển có doanh thu lớn
Tóm tắt
Vốn bằng tiền được hiểu là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp
gửi ở ngân hàng và các chứng khoán thanh khoản cao. Tiền mặt và tiền gửi ngân hàng
bản thân nó là loại tài sản không sinh lãi, do vậy trong quản lý tiền mặt và tiền gửi ngân
hàng thì việc tối thiểu hóa lượng tiền mặt, tiền gửi ngân hàng phải giữ là mục tiêu quan
trọng nhất. Tuy nhiên việc giữ tiền trong kinh doanh cũng là vấn đề hết sức cần thiết để
đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày. Có 2 công cụ khoa học quản lý tiền mặt đó
chính là Mô hình Miller-Orr và mô hình Baumol. Các doanh nghiệp vận tải biển cần phải
nghiên cứu phân tích nên lựa chọn ứng dụng mô hình nào để quản trị tiền cho phù hợp
với loại hình hoạt động kinh doanh đặc thù trong lĩnh vực vận tải biển. Qua nghiên cứu
cho thấy mô hình Baumol chỉ thích hợp với những dòng tiền rời rạc chứ không liên tục, có
thu nhưng không có chi. Ngược lại Mô hình Miller-Orr đã khắc phục những hạn chế của
mô hình Baumol phù hợp với quản trị tiền tại các doanh nghiệp vận tải biển lớn có dòng
thu, dòng chi trong kỳ lớn và chi phí giao dịch mua bán chứng khoán là nhỏ, không đáng
kể so với chi phí cơ hội của việc giữ tiền.
g nhanh càng tốt. • Doanh nghiệp có thể sử dụng hệ thống ngân hàng. Thông qua ngân hàng, doanh nghiệp thanh toán các hoá đơn mua hàng hoặc đầu tư vào các loại chứng khoán thanh khoản cao trên tài khoản thanh toán của họ. Lợi thế của hệ thống ngân hàng là tiền tệ có thể được chuyển đi rất nhanh bên trong hệ thống, cho phép doanh nghiệp sử dụng tiền nhanh chóng một khi đã có chúng trong tài khoản. Thứ hai là giảm tốc độ chi tiêu: Thay vì dùng tiền thanh toán sớm các hóa đơn mua hàng, nhà quản trị tài chính nên trì hoãn việc thanh toán, nhưng chỉ trong phạm vi thời gian mà các chi phí tài chính, tiền phạt hay sự xói mòn vị thế tín dụng thấp hơn những lợi nhuận do việc chậm thanh toán đem lại. Hai chiến thuật nổi tiếng thường được sử dụng là tận dụng sự chênh lệch thời gian của các khoản thu, chi và chậm trả lương. Thứ ba là dự báo chính xác nhu cầu tiền: Làm giảm đầu tư vào tiền. Mặc dù việc dự toán chính xác khó có thể thực hiện được, nhưng nếu dự toán được tương đối chính xác nhu cầu tiền mặt thì doanh nghiệp sẽ giới hạn được tối đa nhu cầu vốn phải vay mượn, do đó giảm chi phí tiền lãi tới mức tối thiểu. Thứ tư là đầu tư thích hợp những khoản tiền nhàn rỗi. 2.4 . Xác định ngân quỹ tối ưu Như đã phân tích ở trên, mặc dù nắm giữ tiền có nhiều tác dụng nhưng doanh nghiệp mất đi một lượng vốn để đầu tư vào sản xuất - kinh doanh. Chính vì vậy, để dung hòa giữa nhu cầu thanh toán với sinh lời, nhà quản lý phải xác định mức tồn quỹ phù hợp. Hai mô hình phổ biến được tham khảo trong trường hợp này là Baumol và Miller - Orr. 2.4.1. Mô hình Baumol Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 43 – 08/2015 95 Nhà kinh tế học Baumol đã xây dựng mô hình đặt hàng hiệu quả (EOQ) để xác định lượng hàng hóa tối ưu mỗi lần cung ứng, dựa trên giả thiết nhu cầu sử dụng hàng hóa, nguyên vật liệu thay đổi đều đặn theo thời gian và luôn có đủ điều kiện để thực hiện các đơn đặt hàng. Năm 1950, hãng xe Toyota của Nhật Bản đã xây dựng hệ thống giao hàng đúng hạn - Just In Time (JIT), trong đó, chi phí lưu kho được giảm tới mức tối đa tương đương với mức dự trữ bằng 0. Song cũng giống như EOQ, JIT ít được dùng tại doanh nghiệp Việt Nam do thị trường thường xuyên biến động và mức độ chuyên môn hóa còn thấp, không phải lúc nào cũng có đủ điều kiện để áp dụng hoàn chỉnh những lý thuyết, dẫn tới khó dự báo dòng tiền. Thay vào đó, để đảm bảo an toàn, nhà quản lý hay chọn giải pháp dự trữ càng nhiều càng tốt. Năm 1952, William Baumol là người đầu tiên đưa ra phương án giải quyết mâu thuẫn giữa giảm chi phí cơ hội của việc giữ tiền với duy trì khả năng thanh toán nêu trên. Theo đó, ông giả định, doanh nghiệp có dòng tiền tệ rời rạc với lưu chuyển tiền thuần ổn định, không đổi qua các kỳ. Vì vậy, nếu gọi lượng tiền cần duy trì trong kỳ là M, tồn quỹ bình quân của doanh nghiệp sẽ là M/2. Sự thay đổi ngân quỹ của doanh nghiệp diễn ra đều đặn, có dự tính trước như hình 2.1 Nguồn: [1, tr 161] Theo Baumol, để tận dụng khả năng sinh lời, doanh nghiệp sẽ sử dụng chứng khoán thanh khoản cao làm “bước đệm” trong dự trữ, thay thế cho tiền. Đây là những chứng khoán ngắn hạn, có ít rủi ro trong quá trình chuyển đổi thành tiền như tín phiếu kho bạc, kỳ phiếu ngân hàng... Khi ngân quỹ dư thừa tạm thời, nhà quản lý sẽ mua chứng khoán và ngược lại, các chứng khoán này được bán đi khi ngân quỹ thiếu hụt. Việc giữ tiền thay cho chứng khoán làm phát sinh 2 loại chi phí cơ bản là chi phí cơ hội và chi phí giao dịch. Trong đó, chi phí cơ hội được đo bằng tỷ lệ sinh lời của chứng khoán (kí hiệu là i %) nhân với số dư ngân quỹ bình quân (M/2). Chi phí giao dịch mỗi lần bán chứng khoán giả định bằng 1 số tuyệt đối Cb. Nếu trong kỳ, doanh nghiệp cần sử dụng tổng số tiền bằng Mn, số lần bán chứng khoán sẽ là Mn/M. Từ những phân tích trên, có thể tính tổng chi phí cho việc nắm giữ tiền: Tổng chi phí nắm giữ tiền = Tiền lãi chứng khoán bị bỏ qua + Chi phí giao dịch bán chứng khoán Hay: TC = i x M/2 + Cb x Mn/M Câu hỏi của bài toán quản lý ngân quỹ là xác định mức tồn quỹ tối ưu M* để tổng chi phí TC là nhỏ nhất. Có thể mô tả đường tổng chi phí TC trên đồ thị sau, là sự kết hợp giữa hai đường chi phí: - Đường chi phí tuyến tính y= i x M/2; - Đường chi phí hypebol y= Cb x Mn/M. Hình 2.1. Giả định sự thay đổi ngân quỹ theo mô hình Baumol Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 43 – 08/2015 96 Với i, Cb, Mn là hằng số, mục tiêu của mô hình Baumol là tối thiểu hóa chi phí hay: TC = ix M/2 + CbxMn/M --> min. Lấy đạo hàm với biến là M ta có: y’ = i/2 - CbxMn/(M*)2 = 0 Suy ra: 𝑀∗ = √ 2×𝑀𝑛×𝐶𝑏 𝑖 Nguồn: [1, tr 161] Kết quả trên cho thấy, nếu chứng khoán có tỷ lệ sinh lời lớn, doanh nghiệp nên nắm giữ ít tiền và ngược lại, nếu chi phí giao dịch cho mỗi lần bán chứng khoán nhiều, xu hướng chung là tích trữ tiền. Như vậy, mức tồn quỹ thiết lập theo mô hình Baumol vừa đáp ứng nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp, vừa tận dụng khả năng sinh lời của tiền. Tuy nhiên, điểm hạn chế của mô hình Baumol xuất phát ngay từ giả định ban đầu về lưu chuyển tiền tệ không phù hợp với thực tế. Khác với việc dự trữ nguyên vật liệu phục vụ sản xuất, nhu cầu về tiền, cũng như các khoản phải thu, phải trả trong quá trình kinh doanh không xuất hiện một cách đều đặn và dễ dàng dự đoán trước. Nên mức tồn quỹ của doanh nghiệp không thể ổn định bằng M/2 như trong mô hình. Từ đó, giá trị M* tính được không hoàn toàn chính xác và chỉ có ý nghĩa trên phương diện lý thuyết. * Mô hình Miller - Orr [2, tr 65 ] Để khắc phục những nhược điểm nêu trên của Baumol, hai nhà khoa học Merton Miller và Daniel Orr đã phát triển mô hình tồn quỹ với giả định lưu chuyển tiền thuần biến động ngẫu nhiên, chênh lệch so với giá trị bình quân một đại lượng là phương sai thu chi ngân quỹ (kí hiệu Vb). Từ đó, tồn quỹ của doanh nghiệp không ổn định ở một mức M như trong mô hình Baumol, nó có thể dao động từ Mmin tới Mmax, là điểm giới hạn dưới và giới hạn trên. Tuy nhiên, trong khoảng cách đó, Miller và Orr vẫn đề xuất mức tồn quỹ tối ưu M*, được tính theo công thức như sau (với các kí hiệu đã giải thích trong mô hình Baumol): 1/3 3 Cb x Vb d = 3 x x 4 i M* = Mmin + d/3 Nguồn: [11, tr 164] Các kết quả trên được minh họa qua hình 2.2 1/3 * 3 Cb x VbM = Mmin + x 4 i ixM/2 M TC TC M*0 CbxMn/M Tạp chí Khoa học Công nghệ Hàng hải Số 43 – 08/2015 97 Như vậy, ngoài hai biến độc lập có mối quan hệ tỷ lệ thuận (Cb) và tỷ lệ nghịch (i) với mức tồn quỹ tối ưu, Miller và Orr đã bổ sung thêm nhân tố biến động của lưu chuyển tiền thuần (đo bằng phương sai thu chi ngân quỹ) vào mô hình. Theo đó, một doanh nghiệp có dòng tiền thường xuyên biến động thất thường, chênh lệch giữa thu và chi lớn, cần duy trì mức tồn quỹ cao. Ngược lại, nếu dòng tiền ổn định, mức tồn quỹ cần thiết sẽ nhỏ hơn. Kết luận này phù hợp với suy luận lý thuyết, đồng thời, giúp mô hình Miller - Orr có giá trị ứng dụng hơn trong thực tiễn, trở thành mô hình được sử dụng phổ biến để xác định ngân quỹ tối ưu cho doanh nghiệp. 2.5 . Đặc điểm hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải biển Đặc điểm lớn nhất của ngành vận tải là mang tính phục vụ, đảm bảo cho các ngành sản xuất khác hoạt động bình thường. Hoạt động kinh doanh vận tải tạo ra tính thống nhất giữa sản xuất và tiêu thụ. Mặt khác hoạt động vận tải nói chung và vận tải biển nói riêng không có sản xuất dự trữ, không có hoạt động trung gian giữa sản xuất và tiêu thụ. Quá trình sản xuất của ngành vận tải biển không làm thay đổi tính chất lý hóa mà chỉ làm thay đổi vị trí của đối tượng lao động để tạo ra sản phẩm, dịch vụ. Lao động trong ngành vận tải không tạo ra sản phẩm mới mà chỉ làm tăng thêm giá trị của hàng hóa được vận chuyển. Một đặc điểm khác của hoạt động vận tải là mang tính thời vụ và có tính chất quốc tế (đối với các doanh nghiệp vận tải biển có vận chuyển trên các tuyến nước ngoài) Chính những đặc điểm hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp vận tải biển (DNVTB) nói trên làm cho việc quản trị vốn bằng tiền của các DNVTB rất khó khăn vì tính chất thời vụ, nhất là các DNVTB có doanh thu lớn (20 tỷ trở lên). 3. Kết luận Đối với ngành dịch vụ vận tải biển, một số lớn hoạt động đòi hỏi phải có tiền mặt để mua nhiên liệu, nước ngọt, vật tư dự trữ, trả tiền ăn, tiền tiêu vặt cho thủy thủ đoàn, trả các khoản tiền cảng phí, thuê đại lý,... cho chuyến đi của tàu. Do đó ngành này đòi hỏi một tỷ số tiền mặt trên tổng doanh thu và tỉ số tiền mặt trên tổng tài sản khá cao. Sau cùng doanh nghiệp cần có lượng tiền mặt nhằm đủ khả năng đáp ứng trong các trường hợp bất ngờ như hỏa hoạn, cạnh tranh về quảng cáo với các doanh nghiệp khác,... Mặt khác đối với các doanh nghiệp vận tải biển có doanh thu lớn, cước phí vận chuyển một chuyến đi lớn, các khoản tiền thu được từ cước vận tải xuất hiện không đều đặn mà phụ thuộc rất nhiều vào thời gian chuyến đi của tàu và các điều khoản thanh toán trong hợp đồng vận chuyển được ký kết với khách hàng. Đồng thời các chi phí giao dịch chứng khoán là nhỏ không đáng kể so với chi phí cơ hội của việc giữ tiền thì doanh nghiệp nên mua tín phiếu kho bạc hay nắm giữ các cổ phiếu để thay thế dự trữ tiền. Với hoạt động đặc thù như vậy các doanh nghiệp vận tải biển lớn cần thiết nên ứng dụng mô hình Miller-Orr trong lĩnh vực quản trị tiền của đơn vị. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Harold T. Amrine, Jonh A. Ritchey, Colin L. Moodie, Joseph F. Kmec, Tổ chức sản xuất và quản trị doanh nghiệp, NXB Thống kê, Hà Nội, 1994. [2] GS.TS Phạm Quang Trung, Giáo trình quản trị tài chính doanh nghiệp, Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, 2012. [3] GS. TS Ngô Thế Chi, PGS. TS Nguyễn Trọng Cơ, Giáo trình phân tích tài chính doanh nghiệp, NXB Tài chính, Hà Nội. 2008 [4] Frederic Mishkin, Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 2001. Hình 2.2. Mô hình Miller - Orr
File đính kèm:
- phan_tich_mo_hinh_quan_tri_von_bang_tien_toi_uu_trong_cac_do.pdf