Chính sách chuyển giá và chiến lược bán phá giá tại các công ty có quan hệ liên kết

Tóm tắt

Chuyển giá là một hành vi trái phép nhằm làm giảm đi số thu nhập mà các công ty con

hoặc những doanh nghiệp liên kết khác thực tế phải kê khai với cơ quan thuế của nước sở tại để

trốn và tránh thuế. Khi các bên có mối quan hệ liên kết thì hành vi chuyển giá có thể áp dụng,

hoặc làm tăng giá trị đầu vào để giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc làm giảm giá trị đầu vào

để hạ thấp giá thành sản phẩm. Khi giá thành giảm thấp thì công ty có thể tiến hành bán phá giá

tại thị trường mục tiêu. Trong trường hợp này sản phẩm từ công ty mẹ nhập vào thị trường mục

tiêu chỉ tính biến phí mà không phân bổ định phí, lúc này yếu tố nhập lượng của công ty con chỉ

là biến phí, trong khi đó, định phí chiếm tỷ trọng rất cao vì sản phẩm thông dụng kỹ thuật, chi phí

đầu vào thấp sẽ làm cho giá thành thấp. Dựa trên các phương pháp định giá sản phẩm như

phương pháp Absorption (chi phí sản xuất) hay phương pháp Variable (biến phí) để xác định giá

bán. Giá bán này thấp hơn rất nhiều giá bán trên thị trường nhưng không có cơ sở để xem các

doanh nghiệp này bán phá giá vì không vi phạm luật pháp Việt Nam (không bán thấp hơn giá

vốn) do họ bán với giá mà đạt được mức lãi kỳ vọng.

pdf9 trang | Chuyên mục: Tài Chính Doanh Nghiệp | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Chính sách chuyển giá và chiến lược bán phá giá tại các công ty có quan hệ liên kết, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
hâu chế biến thành gỗ 
ôcan, sẽ đuợc chuyển giao đến một chi nhánh tại Việt Nam. Tại đây, gỗ ôcan sẽ được gia công 
thành các sản phẩm trang trí nội thất như bàn, ghế, giường, tủ và được chuyển ngược về Đài Loan 
để bán trên thị trường Đài Loan. Trong trường hợp này, công ty ở Việt Nam là một công ty chuyên 
sản xuất theo hợp đồng, thực hiện các hoạt động sản xuất có tính chất giới hạn, không làm công việc 
điều độ sản xuất, không mua nguyên vật liệu và cũng không chịu rủi ro về vật liệu cung ứng và thị 
trường tiêu thụ. Sản phẩm trang trí nội thất sẽ mang nhãn hiệu của công ty Đài Loan HG, hoàn toàn 
không có tên của công ty Việt Nam. Do công ty Đài Loan chỉ thực hiện hợp đồng sản xuất với một 
công ty ở Việt Nam nên không thể sử dụng phương pháp CUP để xác định giá chuyển giao trong 
nội bộ công ty này. Tuy nhiên, do công ty con ở Việt Nam không chỉ thực hiện nhiệm vụ gia công 
cho Công ty mẹ ở Đài Loan mà còn có thể gia công sản xuất cho các công ty không liên kết, do 
khác những mặt hàng trang trí nội thất tương tự, do đó, khoản nâng giá mà công ty Việt Nam khi 
làm dịch vụ cho các công ty không liên kết khác sẽ là những thông tin có thể so sánh đuợc dùng để 
áp dụng phương pháp giá phí cộng thêm khi định giá cho các nghiệp vụ chuyển giao của công ty 
Đài Loan có liên kết. 
Khi sử dụng phương pháp này cần lưu ý đến ba vấn đề sau: Nếu công ty con chỉ thực hiện 
hợp đồng cho công ty mẹ ở chính quốc mà không gia công cho một công ty khác không liên kết, lúc 
đó khoản nâng giá sẽ dựa trên cơ sở loại hình hoạt động gia công tương tự của một công ty khác 
trên thị trường; Nếu công ty con vừa thực hiện hợp đồng cho công ty mẹ, vừa gia công với những 
công ty khác không liên kết thì chi phí quản lý và những chi phí chung khác sẽ phải được phân bổ 
theo giá trị của những hợp đồng gia công. 
Trở lại thí dụ trên, nếu công ty con ở Việt Nam thực hiện 70% doanh số là từ việc thực hiện hợp 
đồng với công ty mẹ và 30% từ hoạt động gia công với các công ty không liên kết khác thì chi phí quản 
lý sẽ được phân bổ 30% cho các khoản nâng giá đối với các công ty không liên kết. Điều này trong thực 
tế rất quan trọng bởi vì doanh nghiệp thường hạch toán các khoản chi phí quản lý và chi phí chung một 
cách tổng hợp, do đó rất khó phân tích khoản chi phí chung nào được phân bổ vào hợp đồng của công ty 
nào. Việc phân bổ chi phí theo mức độ doanh số như trên sẽ đảm bảo tương đối tính khả thi của phương 
pháp này. Cần phải quan tâm đến năng lực sản xuất, công nghệ, khối lượng sản xuất trong khi xác 
định khoản chi phí tăng thêm, đặc biệt là yếu tố năng lực sản xuất (công suất hoạt động). Ví dụ: nếu một 
công ty con vận hành chỉ 50% công suất thì chi phí gián tiếp sẽ được tính vào căn bản giá phí trong việc 
xác định chi phí cộng thêm như thế nào? Nếu chỉ tính trên 50% công suất thì 50% chi phí gián tiếp còn 
lại sẽ xử lý thế nào và nếu tính toàn bộ chi phí gián tiếp vào khoản giá phí cộng thêm thì khoản phí phải 
trả có thể vượt lên trên giá thị trường. Khi giải quyết vấn đề này, cần phải xem xét ở hai trường hợp cụ 
Phan Đức Dũng... Chính sách chuyển giá và chiến lược bán phá giá... 
 114 
thể: Nếu công ty con không dành hết toàn bộ công suất hoạt động cho một khách hàng duy nhất (ở đây 
là công ty mẹ) thì vấn đề không sử dụng hết công suất không phải thuộc trách nhiệm của công ty mẹ, do 
đó không thể đưa hết toàn bộ chi phí gián tiếp vào khoản nâng giá. Nếu công ty con sản xuất theo hợp 
đồng dành hết toàn bộ công suất cho việc gia công sản phẩm của công ty mẹ (hoặc công ty có liên kết) 
thì tại thời điểm không sử dụng hết công suất thì công ty mẹ vẫn phải chấp nhận toàn bộ chi phí này dù 
họ có sử dụng hay không. 
 Trên đây là một số các phương pháp cụ thể để thực hiện “chống chuyển giá” ở Việt Nam. 
Qua những phân tích trên, chúng ta nhận thấy ba phương pháp đã nêu có thể sẽ không áp dụng được 
trong một số tình huống cụ thể. Vì vậy, chúng ta có thể sử dụng thêm một số phương pháp bổ sung 
dựa trên nguyên tắc giá thị trường (không quen biết). 
Các phương pháp bổ sung: 
Phương pháp tỷ suất lợi nhuận:(Rate of Return Method). Thước đo của tỷ suất lợi nhuận 
trong một doanh nghiệp khi xác định giá trị của doanh nghiệp đó chính là lợi tức cổ phần (Anthony 
A. Atkinson, 1991). Tỷ lệ lợi tức phân phối cho mỗi cổ phiếu (Earning per share –EPS) được xem 
như là giá trị thu nhập thuần mang lại từ khoản chênh lệch giữa đầu vào và đầu ra của một doanh 
nghiệp. Tuy nhiên, không thể sử dụng lợi tức cổ phần để xác định giá trị các nghiệp vụ chuyển giao 
trong nội bộ một công ty. Điều này xuất phát từ nguyên nhân: các nguồn tài trợ của một công ty con 
thường được cung ứng bởi công ty mẹ mà không cần phải tuân thủ giá thị trường (Anthony A. 
Atkinson, 1991). Do đó, để xác định nghiệp vụ chuyển giao, chúng ta có thể sử dụng chỉ tiêu tỷ suất 
lợi nhuận trên các tích sản (Delaney, Patrick R., 1994). Khi sử dụng phương pháp này cần lưu ý: 
Phải xem xét sự khác biệt khi các tỷ suất lợi nhuận được tính toán đối với những công ty độc lập 
khác. Điều này thực sự cần thiết vì thông thường, các tích sản tài chính như tiền mặt, nguồn tài 
chính ngắn hạn, các khoản phải thu của các công ty con trong một tập đoàn rất khác biệt với 
những công ty khác độc lập. Vì vậy cần phải có một sự điều chỉnh phù hợp. Cần phải xem xét về 
tình trạng kỹ thuật của máy móc thiết bị khi so sánh các tỷ suất lợi tức giữa một bên có quan hệ liên 
kết với các doanh nghiệp độc lập. Ví dụ, nếu một MNC cung cấp cho công ty con ở Việt Nam một 
hệ thống thiết bị mới và hiện đại thì đương nhiên, tỷ suất lợi tức của nó sẽ khác với những công ty 
độc lập khác mà thiết bị đã cũ, có thể đã khấu hao hết hoặc gần hết. 
Phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit Split Method). Phương pháp này xác định giá 
chuyển giao trong nội bộ tập đoàn bằng cách phân tích việc phân chia lợi tức của các công ty có liên 
kết tham gia trong hoạt động chuyển giao này. Để tính toán giá thị trường, phương pháp này yêu 
cầu phải nghiên cứu sự phân chia lợi tức giữa các bên có quan hệ liên kết và không có quan hệ liên 
kết. Một công ty chuyên sản xuất dược phẩm của Canada thành lập một công ty con chuyên sản 
xuất và bán tân dược tại Việt Nam. Công ty mẹ ở Canada có thể cung cấp nguyên vật liệu để công 
ty con ở Việt Nam sản xuất hoặc có thể cung cấp sản phẩm đã hoàn chỉnh để công ty con ở Việt 
Nam bán trên thị trường Việt Nam. Trong trường hợp không đủ các cơ sở để áp dụng ba phương 
pháp CUP, giá bán lại hoặc phương pháp giá phí cộng thêm, cơ quan thuế có thể sử dụng phuơng 
pháp chiết tách lợi nhuận để kiểm tra độ tin cậy của giá chuyển giao giữa công ty mẹ ở Canada và 
công ty con ở Việt Nam. Điều cần thiết khi thực hiện phương pháp này là phải xác định được doanh 
thu và chi phí của những công ty có liên quan đến hoạt động chuyển giao. Cơ quan thuế có thể yêu 
cầu công ty con cung cấp những tài liệu có liên quan của công ty mẹ để chứng minh tính hợp lý của 
giá nghiệp vụ chuyển giao (Charles T. Horngren, 1991). 
Phương pháp lợi nhuận chuyển giao ròng (Transaction Net Margin Method – TNMM). 
Về thực chất, phương pháp này tương tự với phương pháp CPM của Mỹ. Phương pháp này ra 
Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(33)-2017 
 115 
đời do kết quả của một quá trình thay đổi nhận thức về các phương pháp định giá chuyển giao 
của Mỹ. 
Như vậy, khi các bên có mối quan hệ liên kết thì hành vi chuyển giá có thể áp dụng, hoặc làm 
tăng giá trị đầu vào để giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc làm giảm giá trị đầu vào để hạ thấp 
giá thành sản phẩm. Khi giá thành giảm thấp thì công ty có thể tiến hành bán phá giá tại thị trường 
mục tiêu. Trong trường hợp này sản phẩm từ công ty mẹ nhập vào thị trường mục tiêu chỉ tính biến 
phí mà không phân bổ định phí, lúc này yếu tố nhập lượng của công ty con chỉ là biến phí, trong khi 
đó, định phí chiếm tỷ trọng rất cao vì sản phẩm thông dụng kỹ thuật, chi phí đầu vào thấp sẽ làm 
cho giá thành thấp. Dựa trên các phương pháp định giá sản phẩm như phương pháp Absorption (chi 
phí sản xuất) hay phương pháp Variable (biến phí) để xác định giá bán (Charles T. Horngren, 1991). 
Giá bán này thấp hơn rất nhiều giá bán trên thị trường nhưng không có cơ sở để xem các doanh 
nghiệp này bán phá giá vì không vi phạm luật pháp Việt Nam (không bán thấp hơn giá vốn) do họ 
bán với giá mà đạt được mức lãi kỳ vọng (Anthony A. Atkinson, 1991). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Belkaoui, Ahmed Riahi (1993), Accounting Theory, Third Edition, International Edition by 
Harcourt Brace & Company. 
[2] Delaney, Patrick R. (1994), CPA Examination Review-outlines and study guides, Twenty first 
Edition. 
[3] Haskins, Mark E., Ferris, Kenneth R. and Selling, Thomas I. (1996), International Financial 
Reporting and Analysis, Times mirror higher Education Group, 1996 
[4] Mills , John R. and Jeanne H. Yamamura (1998), “The power of cash flow ratios”, Journal of 
Accountancy. 
[5] Nobes, Christopher and Parker, Robert (1995), Comparative International Accounting, Fourth 
Edition, Prentice Hall International 1995 
[6] Schiff M., Lewin A.Y. (1970), The impact of people on budgets, The accounting review, april, 
pp. 259-268. 
[7] Stevens D.E. (2002), The effects of reputation and ethics on budgetary slack, Journal of 
management accounting research, vol. 14, pp. 153-171. 
[8] Tsui J. (2001), The impact of culture on the relationship between budgetary participation, 
management accounting systems, and managerial performance: an analysis of Chinese and 
Western managers, The international Journal of accounting, 36, pp. 125-146. 
[9] Robert S. Kaplan, Anthony A. Atkinson, Advanced Management Accounting (3rd Edition), 
Prentice Hall. Inc, 1991 
[10] Charles T. Horngren, George Foster, Cost Accounting: A Managerial Emphasis (7th Edition), 
Prentice Hall. Inc, 1991 
[11] Anthony A. Atkinson, Rajiv D.Banker, Robert S. Kaplan, S. Mark Young, Management 
Accounting (3
rd
 Edition), Prentice Hall. Inc, 1991 

File đính kèm:

  • pdfchinh_sach_chuyen_gia_va_chien_luoc_ban_pha_gia_tai_cac_cong.pdf
Tài liệu liên quan