Một số giọng điệu trong truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư
TÓM TẮT
Cuộc sống và con người Nam Bộ đã được thể hiện một cách tài năng qua các truyện ngắn của
Nguyễn Ngọc Tư. Đặc biệt, người đọc có thể nhận thấy tất cả chiều sâu tư tưởng, thái độ, vị thế,
phong cách tài năng cũng như sở trường ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ thông
qua giọng điêu. Giọng điệu trong truyện ngắn của chị rất đa dạng: có giọng dân dã mộc mạc, có
giọng buồn mênh mang, có giọng trầm tĩnh, đắng đót Điều này góp phần tạo nên phong cách
độc đáo của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
ể nhớ quê, nhớ Phạm Thị Hồng Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 273 - 277 275 gốc rễ mình, để đi đâu cũng muốn về nhà. Như qua, phò con bìm bịp này như phò bà già vợ vậy mà vui” [8, tr 100] Hay: “Ông Sáu cười,“Cha để coi, chỗ nào chưa đi thì đi, còn sống là còn tìm. Qua nhờ chú em một chuyện, chú em nuôi dùm con quỷ sứ nầy. Qua yếu rồi, sợ có lúc giữa đường lăn ra chết, để con “trời vật” nầy lại không ai lo. Qua tin tưởng chú em nhiều, đừng phụ lòng qua nghe””[8, tr 102-103] Có thể nói, trước những dâu bể thăng trầm của cuộc đời, con người không thể không buồn nhưng quan trọng hơn trước những dâu bể thăng trầm ấy, con người ta biết chấp nhận nó để có thể sống tốt hơn, để hiểu mình và hiểu đời hơn... Tóm lại, trong cái nhìn hiện thực cuộc sống, Nguyễn Ngọc Tư thường hướng cái nhìn xót xa và thông cảm đến những phận người không may trong cuộc đời. Điều này đã tạo nên một giọng buồn trong truyện ngắn của chị. Tuy vậy, Nguyễn Ngọc Tư không chỉ xót xa và thông cảm, chị còn tin yêu và luôn mong mỏi cho những số phận không may ấy có được cuộc sống hạnh phúc dù là những hạnh phúc bình dị và nhỏ nhoi nhất để bù đắp cho sự độ lượng, vị tha và nghĩa khí của họ trong cuộc sống. Đây cũng chính là cái nhìn mang đầy tính nhân văn của nhà văn trẻ này. Một giọng trầm tĩnh, có phần đượm chua xót đắng cay Trước hết, có thể thấy giọng điềm nhiên, trầm tĩnh trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện qua nhịp điệu kể chuyện rất từ tốn, chậm rãi của nhân vật người kể chuyện. Mở đầu truyện ngắn Cải ơi! người đọc bắt gặp nhịp kể chậm rãi, từ tốn của người kể dù đang thuật lại tình cảnh khó khăn bi đát của các nhân vật - một nhịp kể thể hiện sự tỉnh táo và điềm tĩnh của tác giả trong quá trình phản ánh sự khốn khó của con người trong cuộc sống. Bên cạnh lối kể chuyện với nhịp điệu chậm rãi, từ tốn, thái độ trần thuật, điềm nhiên đôi khi đến lạnh lùng của Nguyễn Ngọc Tư cũng là một minh chứng cho giọng điệu trầm tĩnh của tác giả. Khi nhập vai nhân vật kể chuyện, trước những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống hay những bi kịch trong cuộc đời của nhân vật, Nguyễn Ngọc Tư – (nhân vật kể chuyện) không dùng những từ ngữ thô tục hoặc cách nói mạt sát. Đặc biệt tác giả không chửi rủa hay tỏ ra cay cú khi đề cập đến những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống . Nguyễn Ngọc Tư thường chọn cách nói nhẹ nhàng, mềm mại khi thuật về tình cảnh đáng thương của Sương - cô gái giang hồ sau một đêm đi “thương lượng” với “những người có trách nhiệm” của địa phương (về việc đàn vịt của gia đình Út Vũ bị nhiễm bệnh) trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận: “Một người nuốt nước miếng, ánh nhìn ham muốn như mũi kim thò ra khỏi bọc, lơ láo. Mắt ông ta lột trần chị, và toan tính một thoáng. Người còn lại có vẻ thú vị, háo hức như sắp xem được một vở cải lương hay. Chị thấu hiểu đàn ông đến nỗi, ngay lập tức chị ngó về phía chúng tôi, ngầm báo, cuộc thương lượng (về một sự đổi chác) đã kết thúc rồi... chị trở về khi trăng rạng rỡ trên đầu (mãi sau nầy, tôi vẫn còn ghê sợ cái màu trắng ấy). Ống quần quệt vào cỏ ướt đẫm sương. Hơi rượu quyện với mùi thuốc lá làm tôi chạo chực. Nhác thấy hai chị em tôi ngồi thù lù, chị kêu lên, “trời đất, hai cưng chờ chị chi vậy”. “Chị đã làm đĩ quen rồi, mấy chuyện nầy nhằm bà gì mà mấy cưng buồn?” [8, tr.203]. Có thể nói, tuy không dùng những lời lẽ đao to búa lớn, không quát tháo, không thoá mạ... nhưng người đọc vẫn cảm nhận được cái nhìn phê phán của Nguyễn Ngọc Tư trước những vấn đề tiêu cực trong cuộc sống. Đồng thời cũng cảm nhận nỗi xót xa và thương cảm, đau đớn của nhà văn dành cho số phận không may trong cuộc đời. Đây là thành công của chị trong việc sử dụng cách nói mềm mại, nhẹ nhàng, đầy nữ tính để tạo nên một giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh nhằm lột tả bản chất của những sự việc mà chị phản ánh. Về điều này, nói như nhà văn Dạ Ngân, là Nguyễn Ngọc Tư có giọng “điềm đạm mà thấu đáo”. Hay như Tấn Kiệt trong “Sông nước Hậu Giang và Phạm Thị Hồng Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 273 - 277 276 Nguyễn Ngọc Tư” thì Nguyễn Ngọc Tư có giọng văn “... thành thật hiền hoà, không xốc táp ngang ngược; không có những kiểu nói om sòm mà rỗng tuếch”. Một điểm quan trọng nữa giúp nhận ra giọng điệu của chị chính là lối kể chuyện bình thản, có phần dửng dưng của chị. Những lúc như vậy, người đọc, nhân vật người kể chuyện có khi đứng ngoài xưng “tôi”, có khi nhập vào nhân vật nhưng thực chất trong lòng đau đớn, xót xa... Tâm trạng đó được thể hiện rõ nhất ở những câu văn mà tác giả cố tình (để cho nhân vật kể chuyện trong quá trình trần thuật) mở ngoặt đơn để “giải thích”, “chú thích” thêm một điều gì đó. Ví dụ như trong Một trái tim khô: “Hậu chỉ biết tê tái hỏi một câu, “sao anh đành đoạn giết em”,(trời đất ơi, chắc là hết chuyện nói rồi.) [8, tr.146]. Hay trong Thương quá rau răm: “Quẹo qua quẹo lại, nói đất nói trời (chỉ thiếu nói lời thương yêu), cuối cùng hai đứa ra bãi đào khoai” [8, tr.23]. Theo thống kê của chúng tôi, dấu ngoặc đơn được sử dụng trong ba tập truyện với 36 truyện ngắn của Nguyễn Ngọc Tư là 288 lượt. Cụ thể: Tập truyện Cánh đồng bất tận: 115 lượt; Tập truyện Giao thừa: 95 lượt; Tập truyện Khói trời lộng lẫy: 78 lượt Có thể nói, đây là nét sáng tạo trong cách trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư, góp phần làm nên giọng điệu điềm nhiên, trầm tĩnh rất độc đáo của chị. Chính sự xuất hiện những dấu ngoặt đơn làm cho câu chuyện thêm phần khách quan và sinh động hơn. Một giọng dân dã mộc mạc Giọng điệu dân dã mộc mạc của Nguyễn Ngọc Tư được thể hiện trong những trang văn tả cảnh thiên nhiên, tả cảnh cuộc sống sinh hoạt của người dân Nam Bộ. Đó là những trang viết về dòng sông như một người bạn tâm tình“Đêm sông trăng, ngồi trên nhà có thể nhìn thấy một dòng chảy líu ríu, sáng loáng. Ban đêm, con sông trước nhà tôi không ngủ, nó thức theo những chiếc tàu rầm rì chảy qua, theo tiếng mái chèo quẩy chách bụp rất đều”. Câu văn êm ả như ru, những dòng sông cuộc đời, những dòng sông thời gian thấm thía tình người, niềm đau và nỗi buồn. Những dòng sông-thơ cứ thênh thang chảy mãi từ ngôn ngữ rất riêng, rất trong trẻo, độc đáo và đa âm sắc của Nguyễn Ngọc Tư. Giọng điệu dân dã, mộc mạc này xuất hiện với tần số cao trong truyện ngắn của chị, đôi khi lắng đọng ở những câu văn kể hòa trộn với tả “Bây giờ, gió chướng non xập xòe trên khắp cánh đồng bất tận. Ven các bờ ruộng, bông cỏ mực như những điền viền nhỏ liu riu làm dịu lại mảng rực vàng của lúa”. Câu văn có chất thơ, nó là khúc nhạc lòng thiên nhiên Nam Bộ dân dã, tự nhiên nhưng cũng đầy vẻ quyến rũ vút lên từ những trang văn nồng nàn tình người. Viết về cuộc sống sinh hoạt đời thường gần gũi của người dân Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư đã chọn cho mình giọng điệu dân dã, mộc mạc cứ tự nhiên chảy ra từ vốn sống của nhà văn, gắn bó với mảnh đất Nam Bộ cùng với niềm đồng cảm, chia sẻ. Giọng mộc mạc, dân dã ấy xuất phát từ cảm hứng của nhà văn về cuộc sống và số phận của những “nhân vật nhỏ bé”- những người nông dân nhếch nhác bùn đất và những người nghệ sỹ nghèo khổ, bất hạnh nhưng giàu lòng yêu nghề. Giọng điệu ấy được chưng cất bằng mật độ đậm đặc của ngôn ngữ Nam Bộ (như từ chỉ địa hình ,sản vật gắn với một vùng sông nước; cử chỉ hoạt động, sinh hoạt, cách xưng gọi mang sắc thái Nam Bộ; tình thái từ có màu sắc Nam Bộ, cách diễn đạt kiểu Nam Bộ) và sự ùa vào của khẩu ngữ. Điều này góp phần tạo bối cảnh cho truyện đậm đặc chất Nam Bộ từ cảnh sắc thiên nhiên tới cuộc sống sinh hoạt và tạo cho Nguyễn Ngọc Tư một phong cách độc đáo. KẾT LUẬN Như vậy, có thể thấy bên cạnh âm hưởng và giọng buồn, nhưng không chán chường ủ dột, thì sự điềm nhiên và trầm tĩnh là giọng điệu chủ yếu góp phần làm nên phong cách nhà văn trẻ Nguyễn Ngọc Tư. Nói như Trần Thị Ngọc Lang: “mỗi người một ít, như những con ong rừng gom từng giọt mật một bồi đắp Phạm Thị Hồng Nhung Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 273 - 277 277 cho văn hóa, văn học Việt Nam thêm phong phú, đa dạng, bằng cách đóng góp cho văn hóa, văn học Nam Bộ ngày càng phát triển với sắc thái riêng, phong cách riêng.”[5] TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Nguyễn Trọng Bình. Phong cách truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư nhìn từ phương diện nghệ thuật con người, www. viet-studies. info/NNTu [2]. Trần Hữu Dũng. Nguyễn Ngọc Tư, Đặc sản miền Nam, www. viet-studies. info/NNTu [3]. Lê Bá Hân, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2007), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục [4]. Nguyễn Thị Hoa ( 2008), Giọng điệu trần thuật của Nguyễn Ngọc Tư qua tập truyện Cánh đồng bất tận, kỷ yếu sinh viên khoa học toàn quốc, Huế [5]. Trần Thị Ngọc Lang (2011), Phương ngữ Nam Bộ trong tác phẩm Đồng bằng sông Cửu Long, Từ điển học và Bách khoa thư, số 4. [6]. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề về thi pháp học hiện đại, Bộ GD&ĐT. Vụ giáo viên. [7]. Nguyễn Ngọc Tư (2003), Giao thừa Nxb Trẻ [8]. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Cánh đồng bất tận Nxb Trẻ [9]. Nguyễn Ngọc Tư (2010), Khói trời lộng lẫy Saigon Media & Nxb Thời đại SUMMARY THE TONES IN NGUYEN NGOC TU’S SHORT STORIES Pham Thi Hong Nhung* College of Information and Communication Technology – TNU Nam Bo’s life and people were shown marvelously in short stories by Nguyen Ngoc Tu. Specially, readers might notice all deep thoughts, attitude, position, talented style as well as language strength and creative inspiration of the artist through her tones. The tones in her short stories are diverse: some are folk and rustic, some are immense sad, and some are calm and bitter. These contribute to the unique style of the writer Nguyen Ngoc Tu. Key words: Nam Bo, language strength, tones, style, attitude. Phản biện khoa học: Đào Thị Vân – Trường Đại học Sư phạm – ĐHTN * ĐT: 0916044507
File đính kèm:
- mot_so_giong_dieu_trong_truyen_ngan_cua_nguyen_ngoc_tu.pdf