Mối quan hệ giữa kiều hối và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế
TÓM TẮT
Trong gần ba thập kỷ trở lại đây, kiều hối là một trong những nguồn ngoại tệ quan trọng nhất
trong đảm bảo cân đối cán cân thanh toán, gia tăng dự trữ ngoại tệ, ổn định thị trường ngoại hối và thị
trường tài chính tại Việt Nam. Bài viết này là nghiên cứu định lượng đầu tiên sử dụng mô hình độ trễ
phân phối tự hồi quy ARDL (Autoregressive Distributed Lag) nhằm mục tiêu làm rõ mối quan hệ giữa
kiều hối và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, giai đoạn 1990-
2014. Kết quả kiểm định Perasan đã khẳng định sự tồn tại mối quan hệ trong dài hạn giữa kiều hối và
tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Kết quả đã cung cấp bằng chứng cho thấy kiều hối tác động dương
đến tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn.
3.1.Kiểm định nghiệm đơn vị và kiểm định đồng tích hợp Việc kiểm tra tính dừng được thực hiện thông qua kiểm định nghiệm đơn vị (Uni root test) đối với các biến trong mô hình (1). Nghiên cứu sử dụng tiêu chuẩn kiểm định ADF (Augmented Dickey-Fuller) và PP (Phillip Perron). Kết quả (bảng 1) cho thấy chỉ có biến LREM là chuỗi dừng I(0) theo tiêu chuẩn ADF với ý nghĩa 1% và PP với ý nghĩa 5%. Khi tiến hành kiểm định đối với sai phân bậc nhất thì kết quả lại cho thấy chỉ có biến LREM là các chuỗi dừng sai phân bậc nhất I(1) với ý nghĩa 1% với cả tiêu chuẩn ADF và PP. TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ Q4- 2015 Trang 109 Bảng 1. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị Tên biến Tiêu chuẩn ADF Tiêu chuẩn PP I(0) I(1) I(0) I(1) LGDP -1,349825 -2,029403 -1,643347 -2,230612 LREM -3,834887*** -4,612912*** -3,745543** -5,493165*** Ghi chú: ký hiệu ***,**,* là chuỗi dừng tương ứng với ý nghĩa 1%, 5%, 10% Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu nghiên cứu Tiếp theo, việc lựa chọn độ trễ tối ưu cho mô hình (1) được dựa trên giá trị các tiêu chuẩn AIC và SBC thu được từ việc ước lượng không giới hạn các mô hình ARDL. Trên cơ sở so sánh các tiêu chuẩn này thì độ trễ tối ưu cho mô hình nghiên cứu được xác định là ARDL (1,0,0). Bảng 2. Kết quả kiểm định đồng tích hợp Perasan Thống kê F 7,795785 90% 95% 99% I(0) I(1) I(0) I(1) I(0) I(1) Giá trị tới hạn (Critical value) 2,72 3,77 3,23 4,35 4,29 5,61 Nguồn: Table CI (iii) Case III (Perasan và cộng sự, 2001) Thực hiện kiểm định Wald ( F-statistic) tính được giá trị thống kê F = 7,795785. Sau đó giá trị thống kê F này tiếp tục sử dụng để kiểm định quan hệ đồng tích hợp với tiêu chuẩn của Perasan và cộng sự (2001). Kết quả cho thấy giả thuyết H0: 1 = 2 = 0 bị bác bỏ với mức ý nghĩa thống kê 1% và đủ cơ sở để kết luận giữa các biến trong mô hình (3) có tồn tại mối quan hệ đồng tích hợp trong dài hạn. 3.2.Kết quả ước lượng quan hệ trong ngắn hạn và dài hạn Sau khi kết quả kiểm định Perasan đã khẳng định chắc chắn sự tồn tại mối quan hệ đồng tích hợp trong dài hạn, tác giả tiếp tục thực hiện ước lượng mô hình ARDL (1,0,0) để xác định hệ số hồi quy mô tả mối quan hệ trong dài hạn và ngắn hạn giữa kiều hối và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời kỳ nghiên cứu. Kết quả ước lượng hệ số hồi quy của của hai mô hình ngắn hạn và dài hạn được trình bày trong bảng 3 dưới đây. Bảng 3. Kết quả ước lượng các hệ số dài hạn và ngắn hạn của mô hình ARDL(1,0,0) Mô hình dài hạn: Biến phụ thuộc LGDP Mô hình ngắn hạn: Biến phụ thuộc LGDP Biến Hệ số Thống kê t Biến Hệ số Thống kê t C 4,594250*** 40,47860 C 0,028516** 2,001305 Science & Technology Development, Vol 18, No.Q4- 2015 Trang 110 LREM 0,196800*** 4,968245 LGDP(-1) 0,523025** 2,593613 LREM 0,012665* 1,810891 ECM(-1) -0,013751 -0,547623 R2 0,75 R2 0,58 Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: 2=1,152 [0,2261] Heteroskedasticity Test: Breusch-Pagan- Godfrey: 2 =1,285 [0,3158] Breusch-Godfrey Serial Correlation LM Test: 2=0,9258 [0,1896] Heteroskedasticity Test: Breusch-Pagan-Godfrey: 2 =1,0396 [0,2743] Ghi chú: ***,**,* là hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê ở mức tương ứng 1%, 5%, 10% Nguồn: Tính toán của tác giả từ số liệu nghiên cứu Do đặc thù của mô hình tuyến tính dạng loga là các hệ số hồi quy thu được chính là độ co giãn của biến phụ thuộc theo các biến giải thích với đơn vị %. Từ đó kết quả ước lượng mô hình ARDL(1,0,0) đã cho thấy trong dài hạn kiều hối (LREM) có quan hệ dương với tăng trưởng kinh tế (LGDP) với ý nghĩa thống kê 1%, theo đó nếu kiều hối tăng 1% thì tỷ lệ tăng trưởng kinh tế cũng tăng tương ứng là 0,19%. Phần tiếp theo của bài viết trình bày kết quả ước lượng mô hình ECM để xác định mối quan hệ trong ngắn hạn giữa kiều hối và tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam. Trong đó, phần sai số hiệu chỉnh (ECM) sử dụng là phần sai số thu được từ kết quả ước lượng các hệ số dài hạn. Kết quả ước lượng mô hình (2) tiếp tục cho thấy trong ngắn hạn kiều hối (LREM) có quan hệ dương với tăng trưởng kinh tế (LGDP) với ý nghĩa thống kê 10%. Cuối cùng, hệ số của phần sai số hiệu chỉnh (ECMt-1) là -0,013 nhưng lại không có ý nghĩa thống kê đã cho thấy tốc độ điều chỉnh từ ngắn hạn về cân bằng dài hạn là rất chậm sau khi có các cú sốc tác động. Các kiểm định chuẩn đoán về hiện tượng tự tương quan và phương sai sai số thay đổi cũng đã cho thấy các điều kiện cơ bản của kinh tế lượng về độ tin cậy của kết quả hồi quy đều được đảm bảo. 4.KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH Bài viết sử dụng mô hình ARDL (1,0,0) để nghiên cứu tác động của kiều hối đến tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong giai đoạn 1990-2014. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy một số vấn đề nổi bật như sau: (i) giữa kiều hối và tăng trưởng kinh tế tồn tại quan hệ đồng tích hợp trong dài hạn; (ii) Kiều hối có quan hệ dương (kích thích) với tăng trưởng kinh tế cả trong ngắn hạn và dài hạn. Từ kết quả nghiên cứu, tác giả đưa ra một số khuyến nghị tới các nhà hoạch định chính sách nhằm không những thu hút thêm kiều hối mà còn nâng cao vai trò của kiều hối trong kích thích tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam như sau: Thứ nhất: Cần tiếp tục có các chính sách đẩy mạnh khai thác các nguồn kiều hối tiềm năng bằng việc quảng bá mạnh mẽ hơn nữa hình ảnh đất nước, cập nhật tình hình phát triển kinh tế, chính sách đổi mới kinh tế, thông tin kịp thời về các chuyển biến tích cực của môi trường đầu tư đến cộng đồng kiều bào ta ở nước ngoài để từ đó thu hút thêm kiều hối chuyển về Việt Nam dưới dạng các khoản đầu tư, góp vốn sản xuất kinh doanh trong thời gian tới. Bên cạnh đó, tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ của các kênh chuyển kiều hối vào Việt Nam như hệ thống ngân TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ Q4- 2015 Trang 111 hàng, các tổ chức tài chính để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho kiều bào và lao động Việt Nam ở nước ngoài gửi tiền về trong nước. Thứ hai: Đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động Việt Nam sang làm việc tại nước ngoài, đặc biệt là các quốc gia có nền công nghiệp phát triển. Từ đó không những lao động Việt Nam có điều kiện nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện tác phong công nghiệp, tiếp cận với công nghệ tiên tiến mà còn có nguồn thu nhập cao hơn so với mặt bằng thu nhập trong nước. Qua đó, hoạt động xuất khẩu lao động sẽ ngày càng tạo nguồn kiều hối lớn hơn trong thời gian tới. Bên cạnh đó, xuất khẩu lao động cũng là một hình thức nhằm giảm áp lực thất nghiệp cho nền kinh tế Việt Nam. Thứ ba: Các cơ quan chức năng cần có các biện pháp định hướng, thúc đẩy sự chuyển dịch của dòng kiều hối vào lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra hàng hóa, dịch vụ có ích cho xã hội, qua đó kiều hối sẽ tác động mạnh mẽ hơn nữa tới tăng trưởng kinh tế tại Việt Nam trong thời gian tới. Bên cạnh đó cần có các biện pháp hạn chế dòng kiều hối chảy vào lĩnh vực chứng khoán, bất động sản, vàng làm gia tăng hiện tượng đầu cơ, tạo nên bong bóng tài sản gây bất ổn kinh tế vĩ mô. Thứ tư: Trong thời gian tới Việt Nam cần tiếp tục thực hiện chính sách ổn định tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại hối, từ đó không những tạo cơ sở cho việc thu hút thêm kiều hối mà còn tác động tích cực làm tăng FDI đăng ký, giải ngân. Qua đó các kênh ngoại tệ này sẽ làm tăng dự trữ ngoại hối, tạo nền tảng căn bản cho ổn định tỷ giá hối đoái trong các giai đoạn tiếp theo. Thứ năm: Các chính sách vĩ mô trong giai đoạn tới cần đặt trọng tâm vào ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát ở mức vừa phải (bằng hoặc thấp hơn tỷ lệ tăng trưởng kinh tế). Qua đó tạo điều kiện tiếp tục giảm lãi suất ngân hàng để khuyến khích người dân bán ngoại tệ từ nguồn kiều hối cho hệ thống ngân hàng và rút tiền để chi tiêu hoặc đầu tư góp vốn sản xuất kinh doanh. Từ đó kiều hối sẽ không những hỗ trợ tổng cung mà còn kích thích tăng tổng cầu và thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng trưởng cao hơn nữa trong thời gian tới. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. The World Bank, Migration and Remittances: Recent Developments and Outlook, NewYork, USA (2015). [2]. The World Bank, World Development Indicators 2014, NewYork, USA (2015). [3]. United Nations, Impact of Remittances on developing coutries, UN Conference on Trade and Development, Switzerland, (2011) [4]. Pant B., “Mobilizing remittances for production use: A policy-oriented approach” Nepal Rastra Bank, Working paper serial number: NRB/WP/4. (2008). [5]. Thanh Le, “Remittances for economic development: The investment perpective”, Economic Modelling, No 28, PP 2409-2415, (2011) [6]. Rao B. B., Hassan G. M., “A panel data analysis of the growth effects of remittances”, Economic Modelling, No 28, 701-709, (2011). [7]. Fayissa B., Nsiha, C., The impact of remittances on economic growth and development in Africa, Department of Economics and Finance, Working paper series, February, (2008). Science & Technology Development, Vol 18, No.Q4- 2015 Trang 112 [8]. Sufian E. M., “Work’s remittances and growth in MENA labor exporting countries”, Working paper No 10, International network for economic research, (2009). Hadeel S. Y., “The positive and negative impact of remittances on economic growth in MEAN countries”, The journal of International Management Studies, Vol 7, No 1, PP 8-14, (2012). [9]. Khalid A. K., “The link between remittances and Economic growth in Pakistan: A boon to economic stability”, British Journal of Economics, Management and Trade, Vol 2, No 3, PP 167-185, (2012) [10]. Ronald R. K. (2013), “Remittances and economic growth: A study of Guyana”, Economic systems, 30, (2013) [11]. Perasan, M.H., Shin, Y. and Smith, R.J., “Bounds testing Approaches to the Analysis of Level Relationships”, Journal of Applied Econometrics, 16, 289-326 (2001).
File đính kèm:
- moi_quan_he_giua_kieu_hoi_va_tang_truong_kinh_te_tai_viet_na.pdf