Mạng lưới xã hội và giải pháp hỗ trợ tăng cường mạng lưới xã hội đối với lao động Khmer nhập cư ở Bình Dương
TÓM TẮT
Mạng lưới xã hội chủ yếu của lao động Khmer nhập cư ở Bình Dương là hệ thống thân tộc
và đồng hương, nhưng họ thường ít tham gia hoạt động của các tổ chức xã hội ở nơi làm việc và
nơi tạm trú. Vì vậy, giải pháp hỗ trợ là cần phải có sự hiệp lực của các tổ chức chính thức và phi
chính thức trong việc tăng cường mạng lưới xã hội đối với lao động Khmer nhập cư.
phường hằng năm đều tổ chức các ngày lễ tết lớn như Chol Chnam Thmay hay Ok Bom Bok, thu hút rất đông sự tham gia của lao động Khmer trong và ngoài phường (xem phụ lục 4). TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Lê Anh Vũ 161 Như vậy, có thể thấy việc tham gia vào các hoạt động văn hóa của địa phương hay tổ chức lễ tết theo phong tục cổ truyền của người Khmer gắn liền với sự quan tâm của chính quyền địa phương. Ở đây, vai trò của các cán bộ Đoàn phường là rất quan trọng khi chính họ là những người tư vấn, tham mưu để Đảng ủy Phường hiểu rõ ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của các ngày lễ tết truyền thống đối với cộng đồng lao động Khmer nhập cư. Chính việc đáp ứng nhu cầu này đã giúp bà con cảm thấy gắn bó hơn với vùng đất mới, đó cũng là dịp để người dân bản địa và lao động Khmer nhập cư giao lưu văn hóa và hiểu nhau hơn. Chính vì thế, những hoạt động như phường Bình Hòa tổ chức rất cần được khuyến khích và nhân rộng. Ngoài ra, các chi hội thanh niên công nhân nhà trọ hay chi hội phụ nữ cần tổ chức những chương trình thiết thực và phù hợp với nhu cầu của lao động Khmer thì mới có thể thu hút sự tham gia của họ. Điều này, không những giúp ích đối với lao động Khmer nhập cư mà còn góp phần đảm bảo tình hình an ninh trật tự xã hội của địa phương. Ở nơi làm việc, để đảm bảo quyền lợi cho công nhân lao động, các công ti luôn có tổ chức công đoàn. Tuy nhiên, việc tham gia vào những hoạt động do công đoàn tổ chức đối với lao động Khmer trong nghiên cứu này dường như xa lạ. Có lẽ, họ không tin vào tổ chức này và ngại tham gia (xem phụ lục 5). Không chỉ trong tham gia các hoạt động công đoàn, cách ứng xử trước những sự cố tại nơi làm việc cũng cho thấy một tâm thế “cầu an” của họ (xem phụ lục 6). Trong những diễn ngôn về thân phận của mình ở nơi làm việc, những ngôn từ mà lao động Khmer sử dụng trong nghiên cứu này mang tính “biết thân biết phận” bộc lộ trạng thái chấp nhận. Với họ, có lẽ sự yên ổn để có công việc làm là quan trọng hơn việc đấu tranh đòi quyền lợi, dù công việc có nặng nhọc, lương thấp nhưng vẫn tốt hơn so với ở quê. Những dữ kiện trên cho thấy chính bản thân lao động Khmer đang kiến tạo nên hình ảnh an phận, không phản ánh sự bị động mà ngược lại đó chính là chiến lược sống dựa trên sự cân nhắc về bản thân và bối cảnh tại nơi làm việc. Tuy nhiên, điều này cũng đặt ra thách thức cho các tổ chức xã hội bảo vệ quyền lợi người lao động ở những nơi có nhiều lao động Khmer đang làm việc trong tuyên truyền nâng cao nhận thức của họ về lợi ích của việc tham gia vào các tổ chức xã hội. Để khắc phục tâm thế này, các công ti có đông lao động Khmer làm việc cần tổ chức tuyên truyền về lợi ích khi tham gia các tổ chức như Công đoàn. Trong đó, cần phát huy vai trò của những lao động tích cực, năng động có uy tín đối với lao động Khmer và nên thuyết phục họ tham gia vào Ban chấp hành Công đoàn. 3. Kết luận Kết quả nghiên cứu cho thấy mạng lưới xã hội chính và đóng vai trò quan trọng đối với lao động Khmer nhập cư ở Bình Dương là hệ thống thân tộc đồng hương. Điều này thể hiện đặc trưng văn hóa về tính cố kết và tương trợ lẫn nhau của cộng đồng Khmer di cư. TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 156-164 162 Tuy nhiên, việc ít tham gia các hoạt động của các tổ chức đoàn thể xã hội ở nơi làm việc và nơi ở cũng là một rào cản để lao động Khmer có thể tiếp cận các chính sách, các chương trình hỗ trợ chính thức mà tỉnh Bình Dương đã và đang cố gắng triển khai. Thực tế này, cũng đòi hỏi các tổ chức đoàn thể xã hội cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động để lao động Khmer hiểu được lợi ích khi tham gia. Mặt khác, khi tổ chức hoạt động cần phải đánh giá nhu cầu cũng như phải phù hợp với đặc điểm văn hóa của đồng bào Khmer. Cuối cùng, những thực tế nghiên cứu này gợi nhớ đến quan điểm “hiệp lực” của K. Meagher (2007, tr.411) khi ông cho rằng, để giúp người dân thích ứng với sự biến đổi xã hội, tạo điều kiện cho họ tham gia vào tiến trình dân chủ cần có sự “hiệp lực” giữa định chế chính thức và phi chính thức. Trong đó, định chế phi chính thức có khả năng cải thiện hiệu lực của các định chế chính thức do chúng có năng lực góp sức vào hệ thống chính quyền địa phương, vào việc huy động người dân, việc cung ứng dịch vụ, cũng như vào lĩnh vực giải quyết các xung đột. Chính vì thế, để đáp ứng nhu cầu của lao động Khmer nhập cư, cần có sự bổ trợ và hợp tác giữa các định chế và mạng lưới thân tộc – đồng hương theo hướng bổ sung và phát huy điểm mạnh của nhau. Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ngô Phương Lan. (2012). Bất ổn sinh kế và di cư lao động của người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Tạp chí Nghiên cứu con người, 3, 44-54. Nguyễn Thị Hòa. (2009). Lao động nữ di cư giúp việc nhà từ đồng bằng sông Cửu Long tới thành phố Hồ Chí Minh (Nghiên cứu tại phường 9, thị xã Trà Vinh). Hội thảo Việt Nam học lần thứ 3, 350-374. Hà Nội. Ngô Thị Thu Trang, Hồ Kim Thi, Châu Thị Thu Thủy, và Ngô Hoàng Đại Long. (2016). Thích ứng sinh kế của người nhập cư Khmer tại quận ven đô: Điển cứu tại phường Bình Trị Đông B và phường An Lạc, quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Phát triển Khoa học và Công nghệ, 19, 89-104. Meagher, K. (2007). Introduction: Special issue on'informal institutions and development in Africa'. Africa Spectrum, 42(3), 405-418. PHỤ LỤC 1. “Hồi đó, tui về thấy anh S. khó khăn, con bệnh không có tiền cũng thấy thương nên giới thiệu lên Bình Dương, lên khu trọ nhà bà Tư đó, tui bảo lãnh cho ở trọ rồi nói với bà Út bán quán để hai vợ chồng nó mua chịu đồ, chuyện giúp đỡ này cũng bình thường vì cùng là người mình, mình thương nhau chớ, ngay như tui cũng là do bà con giới thiệu lên đây, chứ tui cũng đâu có biết gì trên này đâu?” (PVS4, Nam lao động tự do, 37 tuổi, Thuận An) TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Lê Anh Vũ 163 2. “Mới có gia đình hàng xóm ở quê lên mới lên có hai ngày à, chưa mua được đồ xài nên lại mượn tô, mượn nồi của em đó, em nói cứ lấy tự nhiên xài, thiếu gì cứ lấy đi, đừng có ngại gì hết trơn hết. Mình thấy họ là mình nhớ đến ngày xưa của mình nên cũng thương họ lắm” (PVS3, Nữ, công nhân, 36 tuổi, Thuận An) 3. “Đi làm tối ngày về nhà thì cũng ở trong nhà, chứ không có đi đâu hết, chỉ có chủ nhật được nghỉ thì mình cũng trò chuyện vui chơi với chị em trong khu trọ thôi chứ cũng không có đi đâu bên ngoài, trong khu này đa số là người dân tộc của mình nên cũng dễ nói chuyện mà bà con tui trên đây, gia đình họ Lâm đó cũng có nhiều đến 5-6 người lận nên cũng có bà con đồ. Nói ngay, ở trong khu này quen nhau hết nên cũng không có mất mát gì đâu”. (PVS 10, Nữ, công nhân, 48 tuổi, Thuận An) 4. “Hôm nay là lễ mừng Chol Chnam Thmay do UBND phường phối hợp với chi hội Thanh niên công nhân tổ chức. Bản thân tôi cũng có sự bất ngờ trước sự tham gia rất đông của thanh niên công nhân Khmer, ước tính có khoảng 3000 người tham gia. Buổi lễ diễn ra trang trọng với nhiều tiết mục truyền thống như điệu Apsara rồi biểu diễn thời trang trong ngày cưới của người Khmer. Các nghi lễ “tắm núi cát” và “tắm phật” đều được thực hiện một cách tôn nghiêm và xúc động. Tôi thấy mọi người tham gia rất vui trong tiếng nhạc truyền thống Khmer réo rắt, nhìn ai cũng thấy phấn khởi. Tôi hỏi anh Triệu Vi L. là chi hội phó chi hội thanh niên công nhân Khmer cho biết: tụi em ở đây cũng được sự quan tâm của chính quyền địa phương cũng như bên Đoàn Thanh niên cũng hỗ trợ anh em làm lễ tết cho bà con, mọi người cũng phấn khởi tham gia, làm xa quê mà những ngày lễ tết được tổ chức trang trọng như vậy là niềm vui của những người con xa quê. Rồi tổ chức lễ như vậy cũng là dịp để tụi em giới thiệu truyền thống văn hóa của dân tộc mình đến với người dân địa phương để cùng giao lưu, học hỏi” (Trích nhật kí điền dã ngày 15/4/2017) 5. “Trong công ti cũng có công đoàn chứ nhưng mà họ cũng làm thuê như mình nên cũng nghe lời ông chủ thôi hà, mình có gì thì tự chịu cho rồi chứ đi thưa thì cũng không được gì mà còn bị để ý nữa”. (PVS5, Nữ, công nhân, 36 tuổi, Thuận An) 6. “ Mình thấy người ta ai cũng không có làm nữa kéo nhau đi ra cổng, rồi la lối tùm lum hết, em cũng sợ vì ai cũng đi mà em không đi cũng không được nhưng em muốn qua nhanh nhanh để còn yên ổn mà đi làm, với em có công việc như ở công ti là mừng lắm rồi nên chịu thiệt chút không sao, không có đòi hỏi gì. Em nhớ, lúc đó vừa sợ vừa vui. Ông chủ thì đứng ở trên la “Bây giờ làm ăn thua lỗ, tao còn có cái quần xà lỏn nè! Tụi bây (công nhân) có muốn lấy không? Dưới này, mọi người hô lấy luôn cho ông ở trần ở truồng luôn, cười quá trời quá đất! Công ti này tăng lương ít quá mà còn tăng theo kiểu xếp hạng A,B,C nữa, hồi năm đó, gần tết bà chị em cưới nên hai vợ chồng em về sớm mấy ngày vậy mà ổng tăng lương ít hơn người khác, vợ chồng em người cũ làm lâu mà ổng tăng có 10.000đ trong khi người mới lại tăng 15.000đ, chơi sốc hàng, em cũng bức xúc nhưng biết làm sao bây giờ! Bây giờ lương mấy người mới còn hơn lương của em luôn! Kì cục thiệt”. (PVS7, Nữ, công nhân, 36 tuổi, Thuận An) TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 156-164 164 SOCIAL NETWORK AND SOLUTIONS TO DEVELOPING SOCIAL NETWORK: A STUDY OF KHMER IMMIGRANT WORKERS IN BINH DUONG PROVINCE Le Anh Vu Thu Dau Mot University Corresponding author: Le Anh Vu – Email: vula@tdmu.edu.vn Received: 17/02/2019; Revised: 10/3/2019; Accepted: 10/4/2019 ABSTRACT The main social network of Khmer immigrant workers in Binh Duong is the system of relatives and fellow citizens. However, they do not often participate in activities of social organizations in their workplace and temporary residence. Therefore, there should be synergies between formal and informal organizations to enhance social networks of Khmer immigrant workers Keywords: social network, , Khmer immigrant workers, Binh Duong province.
File đính kèm:
- mang_luoi_xa_hoi_va_giai_phap_ho_tro_tang_cuong_mang_luoi_xa.pdf