Khuôn khổ pháp lý trong lĩnh vực kế toán kiểm toán và thực tiễn áp dụng trong giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn từ năm 2014 đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến lĩnh vực kế toán, kiểm toán, làm thay đổi đáng kể đến cách thức xử lý và trình bày thông tin kế toán của doanh nghiệp. Trong khuôn khổ bài viết này tác giả đưa ra một số điểm cần lưu ý trong quá trình áp dụng quy định của các văn bản đó trong thực tiễn, từ đó thấy rõ hơn sự cần thiết phải áp dụng đầy đủ Chuẩn mực kế toán quốc tế đối với một
số loại hình doanh nghiệp.
ự giảm sút về chất lượng thông tin kế toán của các đơn vị áp dụng theo các cơ chế tài chính đặc thù đó. Vì vậy, để loại bỏ vấn đề thông tin kế toán bị ảnh hưởng bởi các cơ chế đó cần đảm bảo: - Phải quán triệt vấn đề là nội dung của cơ chế tài chính sẽ không đề cập/quy định các vấn đề liên quan đến kế toán (vì đã được quy định trong chuẩn mực, nói giống chuẩn mực thì thừa mà nói khác thì gây ra bất cập): - Cơ chế tài chính chỉ quy định các vấn đề về tài chính: ví dụ như quy chế phân phối lợi nhuận, trích lập các quỹ đối với SOEs. Chừng nào cơ chế tài chính còn quy định các vấn đề của kế toán thì sự chồng chéo và khác biệt còn xảy ra. Ví dụ: TT45 quy định phải trên 30 triệu mới là TSCĐ trong khi chuẩn mực không phải thế. Hay TT 228 quy định cứng nợ quá hạn từ... đến... thì trích lập...%. - Còn nếu quy định các vấn đề liên quan đến kế toán thì phải nói rõ là các quy định này chỉ dùng cho mục đích khác (ví dụ: tính thuế, quản trị doanh nghiệp nhà nước) và ảnh hưởng của các quy định này đến tài sản, nợ phải trả... sẽ được trình bày trong thuyết minh BCTC chứ không làm ảnh hưởng tới BCĐKT, BCKQKD. Ngày nhận bài: 5/6/2018 Ngày duyệt đăng: 19/6/2018 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Thông tư số 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ kế toán doanh nghiệp; 2. Thông tư số 53/2016/TT-BTC ngày 21/3/2016 của Bộ Tài chính sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 200/2014/TT-BTC; 3. Thông tư số 45/2013/TT-BTC, hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng và trích khấu hao TSCĐ; 4. Thông tư số 28/2017/TT-BTC, sửa đổi bổ sung một số điều của Thông tư 45; 5. Thông tư số 228/2009/TT-BTC, hướng dẫn chế độ trích lập và sử dụng các khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho, tổn thất các khoản đầu tư tài chính, nợ phải thu khó đòi và bảo hành sản phẩm, hàng hóa, công trình xây lắp tại doanh nghiệp. KINH TEÁ TAØI CHÍNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN64 Số 129 - tháng 7/2018 TRIEÅN VOÏNG TAêNG TRÖÔÛNG KINH TEÁ KHAÛ QUAN MAI OANH Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong quý II tích cực cùng với nỗ lực điều hành của Chính phủ là những yếu tố giúp giới quan sát và nghiên cứu dự báo GDP cả năm hoàn toàn có thể ở mức trên 6,5%. Song, để nền kinh tế tiếp tục đà tăng trưởng bền vững, Chính phủ cần đẩy mạnh và mở rộng các cuộc cải cách để giải quyết các vấn đề trong môi trường đầu tư, tăng năng suất lao động. Số liệu từ Tổng cục Thống kê cho thấy, tăng trưởng GDP quý II/2018 đạt 6,79% sau khi đã tăng trưởng tới 7,45% trong quý I. Với kết quả này, tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm đạt mức 7,08%, cao nhất trong vòng 8 năm qua. GDP cả năm trên 6,5% hoàn toàn khả thi Với mức tăng trưởng tích cực 6,79% của GDP quý II/2018, Báo cáo kinh tế vĩ mô Việt Nam quý II/2018 vừa được Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR) công bố mới đây đã lạc quan cho rằng, mục tiêu tăng trưởng năm 2018 đạt 6,5 - 6,7% là hoàn toàn khả thi cho dù triển vọng kinh tế nửa cuối năm có thể có diễn biến kém thuận lợi hơn 6 tháng đầu năm. Trong bối cảnh giá thực phẩm và nhiên liệu đang tăng cao và vẫn có xu hướng gia tăng liên tục, VEPR khuyến nghị cần có sự theo dõi hết sức chặt chẽ và nỗ lực điều hành linh hoạt của các cơ quan quản lý, đặc biệt là chính sách tiền tệ chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện được việc kiểm soát lạm phát ở mức bình quân năm 2018 dưới 4%. VEPR đưa ra mức dự báo tăng trưởng quý III đạt 6,65%, lạm phát giảm nhẹ xuống mức 4,65%, quý IV tăng trưởng dự kiến đạt 6,55%, lạm phát giảm xuống mức 4,13%. Dự kiến tăng trưởng cả năm 2018 đạt 6,8%. Cũng theo nhận định của VEPR, chiến tranh thương mại Mỹ - Trung có khả năng leo thang trong thời gian tới sẽ khiến tỷ giá chịu sức ép tăng mạnh. Việt Nam nên có chính sách giảm giá đồng VND đối với USD ở mức vừa phải và thấp hơn mức giảm giá của đồng Nhân dân tệ so với USD để hưởng lợi và cải thiện tình trạng sản xuất. Tương đồng về dự báo lạc quan, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) cũng vừa đưa ra dự báo mới nhất về kinh tế Việt Nam với khẳng định: “Mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 6,5% có thể đạt được, tuy nhiên, lạm phát có thể ở mức cao hơn do biến động giá hàng hóa trên thị trường thế giới và việc tăng giá các hàng hóa dịch vụ do Nhà nước quản lý. Với độ mở lớn, kinh tế Việt Nam có thể chịu tác động mạnh hơn trước các cú sốc trong nước và ngoài nước. Cam kết của Chính phủ với ổn định kinh tế vĩ mô và cải thiện mô hình tăng trưởng là những điểm nổi bật của kinh tế Việt Nam hiện nay”. Đánh giá về thực trạng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua, IMF cho rằng, nền kinh tế mở cửa và năng động của Việt Nam đã đạt mức độ tăng NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 65Số 129 - tháng 7/2018 trưởng mạnh mẽ trong năm 2017. Các điểm nổi bật là: thị trường tài chính thuận lợi hơn, hoạt động ngân hàng tích cực, môi trường kinh doanh cải thiện và quá trình cải cách tiếp tục diễn ra trong lĩnh vực ngân hàng, doanh nghiệp nhà nước và nỗ lực chống tham nhũng. Thặng dư cán cân vãng lai của Việt Nam cũng tốt hơn trong thời gian qua nhờ sự hồi phục của kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó, Việt Nam tiếp tục nhận được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và các dòng vốn khác nhờ tăng trưởng bền vững, cải thiện điều kiện kinh doanh trong nước và lãi suất toàn cầu suy giảm. Về triển vọng tăng trưởng năm nay, IMF cho biết, nền kinh tế tiếp tục có động lực tăng trưởng mạnh mẽ nhờ nỗ lực cải cách trong các lĩnh vực, cải thiện năng suất lao động, hồi phục kinh tế toàn cầu và cam kết về ổn định tài chính và vĩ mô. Mục tiêu tăng trưởng kinh tế là có thể đạt được trong năm 2018, bất chấp việc hạn chế mục tiêu tăng trưởng tín dụng và tình trạng tài khóa trung lập. Lạm phát được dự báo ở mức 4% trong bối cảnh giá dầu tăng cao và việc tăng giá các dịch vụ công. Với xu thế này và nếu Chính phủ tiếp tục thực hiện các cuộc cải cách như hiện nay, mức tăng trưởng 6,5% là hoàn toàn khả thi. Thặng dư cán cân vãng lai dự kiến sẽ giảm về trung hạn với xu thế tái cấu trúc để thúc đẩy đầu tư và đồng tiền VND tăng giá, dự trữ ngoại hối đạt mức 2,5 đến 3 tháng nhập khẩu. Cần tăng tốc cải cách Lạc quan về triển vọng tăng trưởng của nền kinh tế song Viện trưởng VEPR, TS. Nguyễn Đức Thành nhấn mạnh rằng mức tăng trưởng GDP không phải là dấu hiệu cần và đủ cho thấy “sức khỏe” tốt của nền kinh tế, đặc biệt là khi các nhược điểm cố hữu vẫn còn đó, nhất là sự “mong manh” về tài khoá. Việt Nam không có các khoản dự phòng làm “đệm” giảm sốc, trong khi kinh tế lại phụ thuộc đáng kể vào nhiều yếu tố bên ngoài. Trong phần lưu ý về chính sách, các tác giả bản báo cáo của VEPR cho rằng trong bối cảnh các ngân hàng Trung ương, các nền kinh tế lớn có xu hướng thắt chặt tiền tệ cùng với nguy cơ lạm phát KINH TEÁ TAØI CHÍNH NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN66 Số 129 - tháng 7/2018 gia tăng mạnh trong thời gian gần, tồn tại một khả năng Ngân hàng Nhà nước sẽ tăng lãi suất đồng VND để ổn định tỷ giá. Đây là một rủi ro quan trọng mà các doanh nghiệp và nhà đầu tư cần lưu ý, vì lãi suất tăng sẽ thay đổi toàn bộ trạng thái các thị trường hiện nay. Các nhà nghiên cứu của VEPR lưu ý, tình trạng hàng hóa Trung Quốc có thể đổ vào Việt Nam nhiều hơn trong diễn biến của cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung cần được chuẩn bị quản lý tốt hơn, nhằm tránh gây thiệt hại cho các doanh nghiệp nội địa. Trong khi đó, “tăng tốc cải cách và chú trọng ổn định vĩ mô” là hàm ý khuyến nghị chính sách được IMF đưa ra. Theo tổ chức quốc tế này, bất chấp sức tăng trưởng kinh tế hiện nay, những bất ổn trong nền kinh tế và các rủi ro trong nước và nước ngoài cùng những thách thức dài hạn vẫn chưa phai nhạt. Điều đáng ngại là những yếu tố dự phòng tài chính khá mỏng manh và chính sách vĩ mô vẫn chưa đủ linh hoạt để kiểm soát các cú sốc có thể xảy ra. Nền kinh tế mạnh mang lại cơ hội cho cuộc cải cách tham vọng để tạo sân chơi bình đẳng thông qua việc giải quyết những rào cản của nền kinh tế nhằm tăng cường thu hút đầu tư và cải thiện cán cân thanh toán. Bên cạnh việc dự báo, nền kinh tế năng động và hội nhập của Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng tốt nhờ ổn định vĩ mô và tài chính, từ đó thúc đẩy các cuộc cải cách kinh tế và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tái cấu trúc và tăng tiềm lực tăng trưởng, IMF đưa ra một số điểm đáng lưu ý cho Việt Nam. Theo tổ chức này, chính sách tài khóa của Việt Nam nên chú trọng củng cố chất lượng để đáp ứng các nhu cầu phát triển lớn hơn và đảm bảo cho Việt Nam có một không gian tài khóa đủ sức đương đầu các thách thức dài hạn. Cải cách tài khóa nên được thực hiện theo hướng mở rộng cơ sở thuế, giảm các chi phí hành chính công, đảm bảo an sinh xã hội bằng việc thực thi các cải cách dịch vụ công và chính sách an sinh xã hội tốt, đồng thời, cần tiếp tục cải thiện chất lượng đầu tư công. Trên thị trường tiền tệ, để duy trì ổn định vĩ mô, IMF cho rằng, chính sách tiền tệ nên thắt chặt bằng cách giảm tăng trưởng tín dụng để phù hợp với các mục tiêu đang thực hiện. Cần chính sách hối đoái linh hoạt để giảm các dòng tiền đầu cơ, sẵn sàng ứng phó với các cú sốc và giảm thâm hụt cán cân thanh toán. “Các cuộc cải cách cần thực hiện trên phạm vi rộng hơn, nhanh hơn để giải quyết các vấn đề trong môi trường đầu tư, tăng năng suất lao động. Các lĩnh vực ưu tiên bao gồm: đầu tư cơ sở hạ tầng chất lượng cao; tiếp tục giảm các rào cản về pháp lý; minh bạch môi trường đầu tư và cải thiện chất lượng nguồn dữ liệu, hỗ trợ đầu tư; cải cách giáo dục đại học, giảm mức độ tập trung về sở hữu đất đai của Nhà nước; tiếp tục tái cơ cấu sở hữu nhà nước; tiếp tục tăng cường các biện pháp chống tham nhũng và đương đầu với môi đe dọa từ biến đổi khí hậu”, báo cáo của IMF nêu rõ. GDP 6 tháng qua các năm 2011 5,92% 2012 4,93% 2013 4,9% 2014 5,22% 2015 6,32% 2016 5,65% 2017 5,83% 2018 7,08% (Nguồn: Tổng cục Thống kê)
File đính kèm:
- khuon_kho_phap_ly_trong_linh_vuc_ke_toan_kiem_toan_va_thuc_t.pdf