Hình thành quốc gia – dân tộc ở Nhật Bản thời cận đại tiếp cận từ chính sách văn hóa - nghệ thuật

Tóm tắt. Xây dựng “quốc gia - dân tộc” là một chủ trương quyết liệt của chính quyền Nhật

Bản thời cận đại trên cơ sở du nhập các hệ thống tư tưởng và học thuyết chính trị của phương

Tây. Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu nghiên cứu và sử liệu đương thời, bài viết phân tích

những thành công và hạn chế trong chính sách văn hóa - nghệ thuật của chính quyền Meiji

trên các phương diện giáo hóa tư tưởng quốc dân, tái cấu trúc văn hóa truyền thống, cải thiện

hình ảnh của Nhật Bản và vị trí của văn hoá - nghệ thuật trong nhận thức về dân quyền. Từ

góc nhìn này, tác giả bài viết mong muốn đóng góp thêm một số hiểu biết và nhận thức về quá

trình hình thành những nền tảng cơ bản của “quốc gia - dân tộc” trong cận đại hóa Nhật Bản

thời Meiji.

pdf9 trang | Chuyên mục: Địa Văn Hóa Thế Giới | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 167 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Hình thành quốc gia – dân tộc ở Nhật Bản thời cận đại tiếp cận từ chính sách văn hóa - nghệ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
còn nhà hát bị biến thành nơi giải trí của giới thượng lưu và những con người được coi là văn 
minh đến từ nước ngoài. Mọi nỗ lực của giới sân khấu kịch trung ương và chính sách nghệ thuật 
của chính phủ Meiji – khởi đầu bằng chính sách Khai hoá, “cựu tệ nhất tẩy” trước áp lực phải chứng 
tỏ trình độ văn minh nhằm đạt tới mục tiêu “đồng đẳng với các cường quốc” (「万国に対峙せん」) – 
đã bế tắc cùng với thất bại của việc sửa đổi các điều ước bất bình đẳng năm Meiji 20 (1887). 
Ở một phương diện khác, sự kiểm soát nghiêm ngặt của chính quyền đối với văn hóa - nghệ 
thuật đại chúng chỉ được nới lỏng phần nào sau thắng lợi của Nhật Bản trong chiến tranh Nhật - 
Nga – bước khởi đầu quan trọng trong nỗ lực “phú quốc cường binh” và “thực sản hưng nghiệp” 
hướng tới mục tiêu “đuổi kịp và vượt các liệt cường” phương Tây. Mặc cảm tự ti được cải thiện, 
toàn xã hội hồ hởi với một niềm tự hào vừa được nhen nhóm về quốc gia - dân tộc Nhật Bản. 
2.5. Vị trí của nghệ thuật trong nhận thức về dân quyền 
Trong sự nghiệp xây dựng quốc gia - dân tộc, bên cạnh mục tiêu thống nhất về văn hóa - tư 
tưởng, thì dân quyền, trong đó có quyền thụ hưởng các giá trị văn hóa tinh thần bao gồm tri thức 
và giải trí, là một phương diện thiết yếu thể hiện đặc trưng của một quốc gia - dân tộc. Chính 
quyền Nhật Bản đầu thời cận đại đã nhận thức vấn đề này như thế nào? 
Như được trình bày ở trên, trong “Nghệ thuật thủ đế tam điều”, bên cạnh “Hoàng thượng 
phụng đới”, thì “khuyến thiện trừng ác, dâm phong cấm chỉ” cũng là chủ trương nhất quán và 
cứng rắn xuyên suốt mà chính quyền Meiji áp đặt đối với nghệ thuật, đặc biệt là các loại hình sân 
khấu kịch. Trong các văn bản chính thống đương thời, sân khấu kịch thường xuyên được mô tả 
Nguyễn Dương Đỗ Quyên 
78 
đầy định kiến là “dâm bôn làm loạn phong tục” (「淫奔ヲ媒シ風俗ヲ濫ス」), “phá hoại phong tục” 
(「風俗ヲ敗ル」), “loạn phong nghi” (「風儀ヲ乱ス」), “tổn hại trị an” (「公安ヲ害スルモノ」), “không 
ích lợi gì với chính quyền” (「公儀ヨリ有難キ御神ハナキモノ」). Tương tự, do tích cực góp mặt như 
một diễn đàn của phong trào dân quyền đang lớn mạnh, các sân khấu kể chuyện – tấu nói trong 
các rạp tạp kĩ Yose cũng bị xem là “Kodan dâm nghệ” (「猥褻ノ講談」) hay “phá hoại trị an” (「治
安ヲ敗ル」). 
Đối với thân phận người làm nghệ thuật, theo Kurata Yoshihiro, “Dịch giả tự túc” (「役者自
粛」) – điều thứ ba trong “Nghệ thuật thủ đế tam điều” đã ít nhiều cho thấy ít nhiều chủ trương đổi 
mới của tân chính quyền khi thừa nhận tư cách diễn viên - nghệ sĩ, giải phóng họ khỏi thân phận 
tiện dân (河原者, sống ở ven sông tương tự như ăn mày hay đồ tể) vốn luôn bị miệt thị và xếp 
ngoài các đẳng cấp xã hội cơ bản trong suốt thời kì phong kiến. Tuy vậy, trong các văn bản và 
phát ngôn chính thống, nghệ sĩ biểu diễn hay các hào thương vẫn bị xem thường với tư cách 
hạ dân. 
Với nhận thức đó, từ thời Meiji trở đi, đặc biệt từ năm Meiji 12 cùng với việc thực thi Tam 
tân pháp, việc cấp phép tạm thời đối với các chương trình biểu diễn được đặt dưới sự giám sát của 
các quận trưởng. Tuy nhiên, theo văn bản “Chư hưng hành thủ đế quy tắc thập nhị điều” (「諸興行
取締規則十二条」, Quy tắc 12 điều về quản lí các loại hình biểu diễn) những năm Meiji 20 của 
tỉnh Fukushima, có thể thấy, sau một số lần sửa đổi, ngay trong Điều 1 đã quy định về việc phải 
trình báo cảnh sát sau khi nộp giấy xin phép đến văn phòng quận, theo đó, mỗi chương trình biểu 
diễn đều có sự tuần tra, can thiệp của cảnh sát. Hoạt động kiểm soát còn được tăng cường bằng 
việc đánh thuế cao đối với cả chương trình và nghệ sĩ biểu diễn. Đồng thời, kiểm duyệt kịch bản 
cũng nghiêm ngặt tới mức nhà biên kịch, nhà báo kiêm chính trị gia nổi tiếng Fukuchi Ochi phải 
lên tiếng chỉ trích về sự bất hợp lí của việc làm này. 
Trong một thời gian dài, chủ trương “Nghệ thuật không ích lợi gì đối với quốc gia” (「国家二
有益ナキ遊芸」) chỉ thay đổi một cách thụ động nhờ chuyến thăm của Tổng thống Mỹ và những 
đề xuất của phái bộ Iwakura. Nhưng sự thay đổi này hầu như chỉ nhằm hướng tới mục tiêu đối 
ngoại. Trên thực tế, nghệ thuật của quần chúng vẫn tiếp tục chịu sự đối xử phân biệt, và rõ ràng, ý 
nghĩa của nghệ thuật với tư cách văn hóa tinh thần thiết yếu và việc thụ hưởng nghệ thuật như một 
quyền cơ bản của quần chúng đã không được chính quyền quan tâm và nhận thức đúng mực. Vô 
hình chung, nhu cầu tự do sáng tạo của người nghệ sĩ, nhu cầu thụ hưởng văn hoá tinh thần của 
công chúng, cũng như tính chất thương mại vốn đã phát triển trong văn hóa thị dân thời Edo đáng 
lí phải tiếp tục được dung dưỡng của nền nghệ thuật cận đại, đã bị phủ nhận một cách căn bản, thậm 
chí trong nhiều khía cạnh bị kiểm soát còn hà khắc hơn dưới chế độ phong kiến Mạc phủ. 
Mặt khác, trong một thời gian dài trên quan điểm của những nhà hoạt động dân quyền cấp 
tiến đương thời, về cơ bản, khái niệm “dân quyền” cũng bị đồng nhất với “quốc quyền” – quyền 
lực kiểm soát, chi phối của nhà nước đối với dân chúng. Điều mà họ theo đuổi là các mục tiêu 
chính trị như thành lập Quốc hội, chứ hoàn toàn không phải là dân quyền cơ bản theo đúng nghĩa. 
3. Kết luận 
Xây dựng “quốc gia - dân tộc” là một kim chỉ nam hành động của chính quyền Nhật Bản cận 
đại trên cơ sở du nhập các hệ thống tư tưởng và học thuyết chính trị của phương Tây. Do chưa 
Hình thành quốc gia – dân tộc ở Nhật Bản thời cận đại tiếp cận từ chính sách văn hóa - nghệ thuật 
79 
tích lũy đủ kinh nghiệm để có thể thiết lập hay phá bỏ một cách tuyệt đối, cách thức mà chính 
quyền Meiji theo đuổi là một mặt nỗ lực tạo ra cuộc cải tổ chưa từng có về thể chế và luật pháp, 
mặt khác vẫn kế thừa và duy trì một cách cực đoan nhiều di sản cũ, trong đó có nền chính trị thời 
cổ đại và phong kiến thời Tokugawa. 
Tiếp cận trên phương diện văn hóa - nghệ thuật, có thể thấy chính quyền Meiji đã thể hiện 
những nỗ lực phi thường trong việc xây dựng và thực thi các chính sách tái cấu trúc truyền thống 
văn hóa nhằm chính thống hóa quyền lực của chính quyền trung ương cũng như từng bước xác lập 
vị thế quốc tế của Nhật Bản. Tuy nhiên, như đã phân tích, bên cạnh những thành tựu đáng khâm 
phục, chủ trương và động thái của chính quyền cận đại Nhật Bản đối với văn hóa - nghệ thuật đại 
chúng đã bộc lộ nhận thức chưa đầy đủ và đúng đắn về ý nghĩa “quốc gia - dân tộc”. Về cơ bản, 
hai phương diện “quốc gia” và “dân tộc” đã không được hiện thực hoá đồng thời trong suốt thời 
cận đại – một thời kì ngột ngạt và căng thẳng bất thường, mà ở đó, các trạng thái tư duy và tình 
cảm tự nhiên của quần chúng bị kiểm soát ngặt nghèo, cùng với việc đàn áp phong trào dân chủ 
cũng như sự phát triển của chủ nghĩa dân tộc cực đoan. Hoàn cảnh chính trị đặc thù đó đã ảnh 
hưởng quan trọng tới hình thái và diện mạo của văn hóa - nghệ thuật. 
Như vậy, có thể thấy việc hiện thực hoá “quốc gia - dân tộc” ở Nhật Bản thời cận đại đã trải 
qua một quá trình lịch sử đầy khó khăn, trong đó, Minh Trị Duy tân không phải là một cuộc cách 
mạng tạo ra chủ nghĩa dân tộc kiểu cận đại nhằm giải phóng quần chúng, nhưng chính quyền đã 
đóng vai trò tiền đề cho việc tập hợp quần chúng và thống nhất tinh thần dân tộc Nhật Bản. May 
mắn thay, quần chúng được trang bị tri thức và khao khát tầm cứu tri thức, cùng với một mạng 
lưới truyền dẫn trung gian có sự góp mặt tích cực của đông đảo các nhà hoạt động văn hoá - nghệ 
thuật, đã không ngừng nỗ lực đấu tranh và phản biện, đóng góp quan trọng vào việc hiện thực hoá 
một quốc gia - dân tộc được đề cao trên thế giới ngày nay. Bài viết đóng góp một góc nhìn khác 
với mong muốn phần nào bổ khuyết những khoảng trống còn bỏ ngỏ trong nghiên cứu lịch sử cận 
đại hóa Nhật Bản tại Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Ogasawara Kyoko, 1992. Đô thị và Nhà hát – Trấn hồn, giải trí và quyền lực thời Trung – Cận 
thế. Nxb Heibonsha (小笠原恭子(1992)、『都市と劇場―中・近世の鎮魂・娯楽・権力』、平
凡社). 
[2] Hashimoto Konsuke, 2011. Chính sách nghệ thuật của nhà nước Meiji và xã hội khu vực – Từ 
lịch sử biểu diễn nghệ thuật Cận đại. Nxb Bình luận kinh tế Nhật Bản. 
(橋本今祐( ) 、2011 『 明治国家の芸能政策と地域社会 近代芸能興行史の裾野から― 』 、日本経済評論社 ). 
[3] Kurata Yoshihiro, 1988. Đại hệ tư tưởng Nhật Bản cận đại quyển 18 – Nghệ thuật. Nxb Iwanami 
shoten. (倉田喜弘( ) 、1988 『 日本近代思想体系18―芸能』 、岩波書店). 
[4] Kurata Yoshihiro, 1999. Khai hóa văn minh nghệ thuật – Nhà nước Meiji và Cận đại hóa nghệ 
thuật, Nxb Heibonsha. (倉田喜弘(1999)、『芸能の文明開化―明治国家と芸能近代化』、平
凡社). 
[5] Kurata Yoshihiro, 2006. Thời cận đại của Kịch quán và rạp tạp kỹ - Từ “du nghệ” đến “văn 
hóa”. Nxb Iwanami shoten. (倉田喜弘(2006)、『芝居小屋と寄席の近代・「遊芸」から「文化」
へ』、岩波書店). 
[6] Nguyễn Dương Đỗ Quyên, 2016. Luận án tiến sĩ “Vai trò của Sanyutei Encho trong đời sống xã 
hội – văn hóa Nhật Bản thời kì Minh Trị”. Đại học Quốc gia Hà Nội 
Nguyễn Dương Đỗ Quyên 
80 
[7] Phillip Pons (Kamiya Mikio dịch), 1992. Từ Edo đến Tokyo – Văn hóa thị dân và văn hóa bình 
dân. Nxb Chikuma shobo. (フィリップ・ポンス(神谷幹夫訳)(1992)、『江戸から東京へ・町人
文化と庶民文化』、筑摩書房). 
[8] Yamamuro Shinichi, 1985. Tri thức và chính trị Nhật Bản cận đại – Từ Inoue Kaoru đến nghệ 
thuật đại chúng. Nxb Kintakusha. (山室信一(1985)、『近代日本の知と政治―井上毅から大
衆演芸まで』、金鐸社). 
ABSTRACT 
Nation-state building in modern Japan: an approach from culture-arts policy 
Nguyen Duong Do Quyen 
Institute of Social Sciences Information, Vietnam Academy of Social Sciences 
The creation of a new modern nation-state was hastened by the Japanese government 
modelled on Western political ideologies. Based on secondary literature and historical materials 
research, this paper aims at examining both successes and failures in Meiji government’s culture 
and arts policy in terms of national enlightenment, reconstructing traditions, promoting Japan’s 
image, and the role of arts and culture in the perceptions of civil rights. From this perspective, it is 
hoped that further knowledge could be contributed to the Vietnamese researchers in understanding 
the fundamental basis of nation-state building in the Meiji modernization. 
Keywords: Japan, Nation-state, Meiji period, Modernization, Arts and Culture Policy, 
Traditions, Popular Arts. 

File đính kèm:

  • pdfhinh_thanh_quoc_gia_dan_toc_o_nhat_ban_thoi_can_dai_tiep_can.pdf