Bàn về tính hiện đại trong văn học Việt Nam và Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX

TÓM TẮT

Bài viết tập trung vào việc khảo sát tính hiện đại trong văn học Việt Nam và Trung Quốc qua các

bình diện: bối cảnh xã hội, chủ thể và phương thức tiếp nhận, thành tựu văn học và đội ngũ sáng

tác trong thời gian nửa đầu thế kỷ XX; từ đó chỉ ra sự giống và khác nhau trong sự hình thành và

phát triển của tính hiện đại giữa hai nền văn học. Tính hiện đại trong văn học hai nước chủ yếu

bắt nguồn từ các nền văn hóa và văn học đến từ phương Tây, thúc đẩy trào lưu văn học mới ở mỗi

nước phát triển vô cùng mạnh mẽ. Trong quá trình phát triển, nền văn học hai nước đã học hỏi

và tiếp thu một cách sáng tạo, có chọn lọc những đặc điểm và hình thái mới từ văn học phương

Tây, đồng thời vẫn luôn giữ được quỹ đạo phát triển mang đậm dấu ấn bản sắc của nền văn hóa

phương Đông.

pdf8 trang | Chuyên mục: Địa Văn Hóa Thế Giới | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Bàn về tính hiện đại trong văn học Việt Nam và Trung Quốc nửa đầu thế kỷ XX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
hủ nghĩa 
hiện thực. Những Lỗ Tấn, Mao Thuẫn, Ba Kim, 
Lão Xá của Trung Quốc hay Nguyễn Công Hoan, 
Nam Cao, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng của Việt 
Nam là những minh chứng rõ nét nhất. Chỉ có số 
ít sáng tác của Quách Mạt Nhược hay truyện ngắn 
của nhóm “Tự lực văn đoàn” là có mang đôi chút 
hơi hướng của chủ nghĩa lãng mạn.
Tản văn và tạp văn cũng là thể loại sáng tác 
có nhiều thay đổi trong nửa đầu thế kỷ XX. Thời 
kỳ này, tản văn trong văn học Trung Quốc cực kỳ 
phát triển với nội dung và chủ đề về con người, 
cuộc sống, thiên nhiên Những nội dung sáng tác 
đều được các tác giả cập nhật hết sức phong phú. 
Đặc biệt, thời kỳ này ở Trung Quốc, trên văn đàn 
đã xuất hiện hình thức tản văn kiểu mới, thơ tản 
văn và phát triển rất nở rộ. Một loạt các nhà văn 
nổi tiếng như Lỗ Tấn, Châu Tác Nhân, Chu Tự 
Thanh, Băng Tâm, Hứa Địa Sơn đều đã chuyển 
hướng sáng tác sang hình thức tản văn kiểu mới 
này và cho ra đời nhiều tập tản văn đặc sắc cả về 
nội dung và hình thức. Trong đó, không ít tác phẩm 
được sáng tác trong thời kỳ này cho đến nay vẫn 
còn nguyên giá trị và trở thành những tác phẩm 
kinh điển để lại cho các thế hệ sau sử dụng trong 
lĩnh vực lý luận phê bình và nghiên cứu. Còn ở 
Việt Nam, giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX, tản văn và 
tạp văn vẫn còn là một thể loại văn học mới mẻ và 
đang ở giai đoạn tiền phát triển, nếu có xuất hiện 
thì chỉ là được đề cập sơ qua trên một vài trang báo 
hoặc tạp chí văn học trong nước. Do đó thành tựu 
chủ yếu của tản văn thời kỳ này ở Việt Nam vẫn 
chỉ dừng lại ở những thảo luận xoay quanh việc 
đổi mới về nội dung và hình thức thể hiện. 
Sự phát triển mạnh mẽ của thể loại kịch cũng 
là một nét tương đồng nữa của văn học hai nước 
trong thời kỳ này. Về mặt chủ đề và nội dung, bên 
cạnh việc biên soạn những tác phẩm kịch có cốt 
truyện mới, các vở kịch cũng thường được tác giả 
hai nước biên soạn dựa theo các tác phẩm tiểu 
thuyết, thơ ca nổi tiếng đã có sẵn trên văn đàn nên 
kịch bản thường rất phong phú, quen thuộc và có 
sức hút đối với khán giả. Hình thức kịch và cách 
thể hiện kịch cũng được đội ngũ sáng tác ở hai 
nước chú trọng thay đổi, không đi theo lối mòn 
của thời kỳ trước. Với nhận thức kịch chính là quá 
trình sân khấu hóa cho tất các thể loại khác, từ văn 
xuôi, tiểu thuyết, thơ từ cho đến ca, vũ, nhạc; 
các tác giả đã thay đổi hình thức thể hiện của kịch 
một cách hết sức linh hoạt. Trên cơ sở những thay 
đổi đó, phong cách sáng tác kịch cũng mang nhiều 
nét hiện đại hơn so với thời kỳ trước thế kỷ XX. 
Những tác giả có đóng góp lớn trong thời kỳ này ở 
Việt Nam, có thể kể đến Thế Lữ, Vũ Đình Long; 
ở Trung Quốc có thể nói đến Lão Xá, Tào Ngu, 
Điền Hán Xét về thành tựu, thể loại kịch trong 
thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX ở Việt Nam và Trung 
Quốc đều đạt được những bước tiến đáng kể trong 
nội dung và nghệ thuật. 
Thể loại lý luận phê bình văn học ở Việt Nam, 
trước đây gần như chưa từng xuất hiện, và đến đầu 
thế kỷ XX chỉ mới bước vào thời kỳ phát triển sơ 
khai. Các bài phê bình, khái quát, lý luận văn học 
đơn lẻ bắt đầu được đăng tải trên các tạp chí lý 
luận văn học, văn nghệ như Nam Phong, Tri Tân, 
Thanh Nghị; sau đó mới dần xuất hiện những học 
giả và nhà nghiên cứu chuyên sâu về lĩnh vực này. 
Trong khi đó, ngay từ giai đoạn văn học trước, thể 
loại này đã là một thế mạnh của văn học Trung 
Quốc, sang đến đầu thế kỷ XX, những giao lưu, 
tiếp xúc với hàng loạt các trường phái văn học 
khác nhau đến từ nhiều nguồn văn hóa ngoại lai 
lại càng dễ dàng đưa đến cho văn học Trung Quốc 
nhiều vấn đề liên quan để bình luận, phân tích, 
phê bình, do đó lý luận phê bình văn học lại càng 
phát triển mạnh mẽ hơn và được đẩy lên một tầm 
cao mới. Nội dung của lý luận phê bình văn học 
chủ yếu là bàn về sự phát triển của các giai đoạn 
văn học cận hiện đại Trung Quốc, trào lưu văn học 
81KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
VĂN HÓA - VĂN HỌC v
Ngũ Tứ, sự đổi mới và cải cách trong văn học, sự 
ảnh hưởng của văn học nước ngoài và tiếp nhận 
của văn học Trung Quốc Hình thức sáng tác 
chủ yếu thường là bình luận, khái quát, phê bình, 
phân tích về giai đoạn văn học hay tác giả tác 
phẩm. Nếu như trước đây, phong cách phê bình 
thường bị ảnh hưởng bởi lối nói giảm, nói tránh thì 
ở giai đoạn này, vấn đề khái quát, bình luận thường 
được chỉ ra một cách thẳng thắn với phương pháp 
lập luận chặt chẽ, mang tính thuyết phục cao. 
Tóm lại, xét một cách toàn diện ở tất cả các 
thể loại sáng tác trong văn học Việt Nam và Trung 
Quốc thời kỳ nửa đầu thế kỷ XX, nội dung tư tưởng 
và quan điểm sáng tác của các tác giả Trung Quốc 
thường sớm có phân chia khuynh hướng, đồng 
thời được thể hiện rõ rệt hơn so với các tác giả 
Việt Nam, do đó đề tài trong văn học Trung Quốc 
cũng thường phong phú hơn. Tác phẩm của Trung 
Quốc ngay từ đầu thời kỳ Ngũ Tứ đã luôn sục sôi 
ý chí chống quân xâm lược, kêu gọi lòng quyết 
tâm chiến đấu, đánh thắng và lan tỏa mạnh mẽ với 
bạn đọc. Còn thời kỳ đầu những năm 30 của thế kỷ 
XX, các tác phẩm văn học Việt Nam mặc dù cũng 
thể hiện được tư tưởng đồng cảm trước số phận 
của người dân mất nước, bất mãn với sự thối nát 
của chế độ thực dân nửa phong kiến, nhưng cuối 
cùng thường là lực bất tòng tâm vì không thể thay 
đổi được hiện thực xã hội. Mãi cho đến những năm 
40, khi mà “Từ ấy” và “Việt Bắc” của nhà thơ cách 
mạng Tố Hữu xuất hiện, thì văn học Việt Nam mới 
thực sự bắt đầu phát huy đúng vai trò “văn dĩ tải 
đạo, thi dĩ ngôn chí”3 của mình.
4. KẾT LUẬN
Trong bối cảnh lịch sử xã hội đen tối của quá 
trình hình thành và phát triển tính hiện đại trong 
văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc nửa đầu 
thế kỷ XX, đội ngũ nhà văn, nhà thơ mỗi nước 
đều đã có những nỗ lực rất lớn trong hoạt động 
sáng tác, khắc phục mọi khó khăn gian khổ, dùng 
ngòi bút và tác phẩm văn học làm vũ khí sắc bén 
để tiến hành đấu tranh chống lại kẻ thù. Điều đó 
cho thấy khát vọng to lớn về một nền độc lập, tự 
do, thống nhất đất nước và toàn vẹn lãnh thổ của 
nhân dân hai nước. Ngày nay, dù quá trình tiếp 
nhận tính hiện đại, hậu hiện đại cũng như những 
cái mới, cái đẹp từ nền văn hóa phương Tây vẫn 
là một dòng chảy tiếp diễn chưa bao giờ dừng lại, 
nhưng nền văn học của hai nước vẫn luôn nằm trên 
một quỹ đạo riêng. Việt Nam hay Trung Quốc, dù 
có “Tây hóa” theo cách nào đi nữa, vẫn sẽ không 
bao giờ bị thoát hẳn ra khỏi hình bóng của nền văn 
hóa phương Đông, vốn mang trong mình những 
nét đặc trưng mà không một nền văn minh nào trên 
thế giới có được. Tất cả các yếu tố mang tính hiện 
đại đến từ những nền văn hóa ngoại lai, sẽ được 
văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc học tập 
và tiếp thu một cách có chọn lọc, sáng tạo nên một 
nền văn học thời kỳ mới với nhiều nét đẹp độc 
đáo và đặc sắc của mình. Việt Nam và Trung Quốc 
sẽ cùng bước vào kỷ nguyên văn học xã hội chủ 
nghĩa, tiếp tục thực hiện hiệu quả hơn công cuộc 
cải cách mở cửa ở từng nước, điều đó hoàn toàn 
phù hợp với quy luật phát triển cơ bản của lịch sử, 
xã hội và thời đại/.
Chú thích:
1. Văn học hiện đại Trung Quốc: giai đoạn văn 
học được xác định từ năm 1917 đến năm 1949. Đây là 
cách phân chia thời kỳ văn học theo quan điểm của GS 
Nguyễn Hiến Lê, đồng thời cũng là quan điểm phổ biến 
hiện nay ở Trung Quốc.
2. Phong trào Ngũ Tứ: phong trào yêu nước diễn 
ra ngày 4 tháng 5 năm 1919 ở Bắc Kinh do lực lượng 
học sinh, thanh niên làm nòng cốt, lãnh đạo đông đảo 
nhiều tầng lớp nhân dân Trung Quốc tham gia tiến hành 
biểu tình, bãi công, bạo lực để phản đối chủ nghĩa đế 
quốc, phong kiến. 
3. Văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí: dùng văn chương 
để nói về đạo lý, dùng thơ ca để biểu đạt tư tưởng và 
ý chí.
Tài liệu tham khảo:
Phan Cự Đệ (1999), Văn học Việt Nam, 1900 – 
1945, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
82 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 17 (01/2019)
v VĂN HÓA - VĂN HỌC
COMMENTS ON THE MODERNITY OF VIETNAMESE AND CHINESE 
LITERATURES IN THE FIRST HALF OF THE 20TH CENTURY
NGUYEN NGOC MINH
Abstract: As a research topic in the development of the modernity in Vietnamese and Chinese 
literature, this paper mainly explores the process of literary modernization of the two countries 
based on analyzing both countries’ social background, the development of literary modernity 
and literary achievement in the first half of the 20th century. It then points out the similarities and 
differences between the two countries’ literary modernization process. The modernity of Chinese 
and Vietnamese literatures was originated from Western literature, and Vietnam and China’s new 
cultral and literary movement was developing very rapidly. Rather than being tally Westernized, 
both countries have only made creative and selective imitation and absorption from the Western 
literature and have still retained their development track with oriental features.
Keywords: Chinese literature, modernity, Western culture, Vietnamese literature, receptivity
Received: 05/10/2018; Revised: 21/10/2018; Accepted: 20/12/2018
Nguyễn Thị Bích Hải (2010), Quá trình hiện đại 
hóa văn học ở Trung Quốc và Việt Nam từ cái nhìn so 
sánh, Website hocday.com, truy cập ngày 5/10/2018, 
.
Mã Giang Lân (2000), Quá trình hiện đại hóa văn 
học Việt Nam 1900 – 1945, NXB Văn hóa thông tin, 
Hà Nội.
Nguyễn Khắc Phi (2001), Mối quan hệ giữa văn 
học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so 
sánh, NXB Hà Nội, Hà Nội.
Trần Đình Sử (2014), Tính hiện đại và lịch sử lý 
luận phê bình văn học Việt Nam thế kỷ XX, Website 
trường Đại học sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, truy 
cập ngày 5/10/2018, <
index.php?option=com_content&id=17073&tmpl=-
component&task=preview&lang=vi&site=142> .
赖大仁(2004),“当代文学理论批评的现
代性问题——近年来文学理论现代性问题讨论述
评”,江西师范大学学报(哲学社会科学版),
第37卷,第4期,第8-12页。
钱中文(1999),“再谈文学理论现代性问
题”,文艺研究,第3期,第73-88页。
汤哲声(1995),中国文学现代化的转型(中
国现代文学主潮:1917-1976),南京大学出版
社,南京。
佟欣(2012),“现代文学理论批评的现代性
特征”,现代语文(学术综合版),第10期,第
78-79页。
杨春时(2000),“中国文学理论的现代性问
题”,学术研究,第11期,第85-88页。

File đính kèm:

  • pdfban_ve_tinh_hien_dai_trong_van_hoc_viet_nam_va_trung_quoc_nu.pdf