Hành trình đổi mới văn xuôi sau 1975 của Nguyễn Minh Châu
TÓM TẮT
Hành trình "mở đường” đổi mới văn xuôi nói riêng, góp phần đổi mới văn học
Việt Nam sau 1975 nói chung của Nguyễn Minh Châu diễn ra như thế nào? Bài viết góp
phần kiến giải qua ba chặng nội dung: Truyện ngắn Bức tranh, đột phá ấn tượng về một
lối viết khác; Những thể nghiệm tâm huyết cuối thập kỷ 70, đầu thập kỷ 80 và Những sáng
tác mang tính bước ngoặt.
Những người đi từ trong rừng ra, tr 75-76. TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 63 hoàn mỹ như trước, thậm chí rất khó nhận xét ưu - khuyết, tốt - xấu, hay - dở khi định giá tính cách - phẩm giá nhân vật. Bởi, trong những tình huống, hoàn cảnh khác nhau nhiều khi ưu điểm lại hóa nhược điểm hoặc ngược lại. Chẳng hạn, nét tính cách lãng mạn của cô Quỳ (Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành) đem lại vẻ trẻ trung, nữ tính, quyễn rũ, song, nó từng gây ra cho cô sai lầm khiến cô ân hận suốt đời (trong quan hệ tình yêu với Toàn). Hết chiến tranh, trở lại với cuộc sống đời thường, nét tính cách đó dường như cũng khiến cô khó khăn trong tiếp cận với cuộc sống đầy bất trắc (cuộc hôn nhân với Ph). Có thể nói, với tính cách lãng mạn, Quỳ đã hai lần “mộng du”, “mộng du” là trạng thái ảo giác, thời ở Trường Sơn, cô gái mới rời ghế nhà trường bước vào môi trường chiến tranh ác liệt, “công chúa của Trường Sơn” “mộng du” đi tìm kiếm sự nhất thể cái “Hùng” với cái “Đẹp”, cái “Cao cả”. Chiến tranh đi qua, bị ném trả lại cuộc sống đời thường, cô lại “mộng du” giữa đời thực khắc nghiệt và phồn tạp. Dường như, Quỳ thể hiện trạng thái “mộng du” của chính Nguyễn Minh Châu một thời, khi ông tìm cách lý tưởng hóa, cũng là đơn giản hóa sự phức tạp của cuộc sống. Càng ngày, nhà văn dường như càng nhận ra: con người là sản phẩm của lý trí, của sự rèn luyện ý chí, nhưng con người trước hết là sản phẩm của tạo hóa. Nhiều khi tính cách/bản tính “trời sinh” còn “mạnh” hơn sự rèn luyện/chi phối của lý trí. Có lúc, rất khó nhận biết nhân vật hành động - suy nghĩ theo bản năng hay lý trí. Sự kết hợp hay hòa trộn này khiến nhân vật của Nguyễn Minh Châu trở nên bí ẩn một cách huyền diệu đến không ngờ, nó khiến nhân vật của Nguyễn Minh Châu hiện ra thật mới mẻ và táo bạo trong thời điểm thập kỷ 80. Dễ hiểu tại sao không ít độc giả, kể cả giới sáng tác từng ngỡ ngàng: “khi lướt một vòng nhận mặt lại những nhân vật truyện ấy thấy dường như có những con người lạ lẫm quá”. Hai nhân vật: người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa và lão Khúng trong thiên truyện liên hoàn Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát có thể coi là những minh chứng tiêu biểu cho sự đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu. Người đàn bà ấy có nét đặc trưng của đàn bà vùng biển ở ngoại hình: “cao lớn với những đường nét thô kệch”, tuy “mụ” cũng có nét riêng là “rỗ mặt”. Song, Nguyễn Minh Châu không có ý định dùng ngoại hình để mách bảo tính cách, sự mách bảo, nếu có, rằng, đây là người đàn bà lao động vùng biển rất bình thường chẳng có gì đáng để ý, chị ta có thể hòa lẫn vào số đông nếu tác giả không tình cờ chứng kiến tình huống không thể tin nổi: Sau mỗi cuộc ra khơi trở về, cặp vợ chồng lại im lặng lầm lũi, vợ đi trước, chồng đi sau tiến sâu vào bãi xe tăng hỏng, khi đã khuất không còn ai trông thấy, lão chồng “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay, lão rút chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa, chẳng nói chẳng rằng trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà”. Lão vừa quất vừa nguyền rủa “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết đi cho ông nhờ”. Ngược lại với cơn giận dữ của chồng, người đàn bà “với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”. Đáng ngạc nhiên hơn, đây không phải là trận đòn duy nhất mà cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Lão đánh vợ nhiều đến mức thằng con trai mới hơn mười tuổi của lão đã có ý định trả thù vì đã đánh mẹ nó(!). Khi sự việc bị phát giác, tòa án cho gọi TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 64 với ý đồ sẽ ủng hộ nếu chị ta có ý định bỏ lão chồng vũ phu. Thật kỳ lạ, người đàn bà thất học, xấu xí, sợ sệt lần đầu đến một nơi công sở lại khiến cho cả chánh án - người cầm cán cân công lý lẫn nghệ sỹ, đồng thời là ân nhân “vỡ” ra nhiều điều. Chị ta không những không có ý định bỏ mà còn bảo vệ cho lão, nhận “lỗi” về mình và “nói tốt” cho gã chồng vũ phu kia: “Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm”, “giá tôi đẻ ít, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”, “đám đàn bà hàng thuyền chúng tôi cần phải có một người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con”, “bất kể lúc nào thấy khổ quá là lão xách tôi ra đánh”Hóa ra, đây không chỉ là bi kịch số phận mà là bi kịch cuộc sống. Để giải quyết bi kịch ấy cần sự vào cuộc của cả xã hội và chính quyền. Với người đàn bà hàng chài, trong sự cúi đầu nhẫn nhục kia, thấy lấp lánh vẻ đẹp nhân từ, nhân hậu, sự hi sinh vô bờ bến của lòng mẹ; sự độ lượng, vị tha của một trái tim rộng lượng, một tấm chân tình thủy chung. Đây là người đàn bà của vẻ đẹp mẫu tính, của chức năng thiên tính. Và đó là thiên tính sáng suốt, vì vậy, nó có khả năng cứu rỗi, khả năng khai sáng, thức tỉnh. Hình như vẫn say mê đi tìm cái đẹp, nhưng cái đẹp và cả hạn chế của con người mà tác giả phát hiện, giờ đây thiên về bản năng thiên phú, chức năng giới tính. Theo Nguyễn Minh Châu, dường như đó mới là căn cốt của nhân loại, mọi nghiên cứu, tìm hiểu nên/cần bắt đầu từ đấy. Đến thiên truyện liên hoàn Khách ở quê ra và Phiên chợ Giát, qua nhân vật lão Khúng và cả một vài nhân vật phụ nữa, ngòi bút của Nguyễn Minh Châu thực sự đạt đến độ “chín”về thi pháp. Tác giả tiếp tục hướng đến mô típ nhân vật là sản phẩm của sự kết hợp/ hòa trộn giữa bản năng thiên tính và hoàn cảnh sống tác động mà thành. Có ý kiến cho rằng, lão Khúng “thuộc loại nông dân cổ sơ ở thâm sơn cùng cốc”5. Chúng tôi không nghĩ như thế, lão Khúng không thuần túy là nông dân, gốc gác của lão là ngư phủ, lão vốn dân “kẻ biển”, vì máy bay Mĩ “vít mất lối ra chỗ có con cá” nên lão và bà con phải dời làng lên vùng đồi khai hoang chống đói. Lão Khúng là hiện thân của con người Việt Nam, một dân tộc rất giỏi ứng phó trước môi trường/ hoàn cảnh sống nhiều đột biến, bất ngờ. Sự thích nghi đó mang tính hai mặt: chịu đựng dẻo dai, gan góc và kiên cường sống nhưng cũng sẽ rất bảo thủ, tự mãn và gia trưởng. Mặt trái này xuất phát từ chính nét ưu việt kia, khả năng chống chịu và sống sót khiến người ta dễ tự đắc và chỉ tin vào chính mình. Lão Khúng là con người của thì hiện tại, là công dân dưới thời cách mạng. Như mọi người dân Việt Nam khác, gia đình lão, bản thân lão từng trải qua mọi thăng trầm của đất nước, dân tộc giai đoạn hiện tại. Lão biết mò ra tận Hà Nội để sắm công cụ lao động, từng tham gia đại công trường của huyện, lão được ông chủ tịch huyện “mê” vì cách làm ăn, có lần đi “thực tế” về nhà lão ở một tuần để học cách làm ăn của lão... Lão Khúng khôn ngoan, thực dụng. Nguyễn Minh Châu đã “khám phá” con người Việt Nam qua hình ảnh lão Khúng. Đấy mới là con người của cuộc sống đời thường đích thực, biết “điều tiết” ứng phó với mọi hoàn cảnh: là công dân có trách nhiệm và tích cực khi lão “dâng” đứa con trai đối với lão là “một đống của” mà 5 Nguyễn Thanh Hùng, Một khía cạnh của phê bình văn học dẫn từ Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu. TẠP CHÍ KHOA HỌC, TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 23. 2015 65 bộ đội không bao giờ hiểu hết giá trị của con trai lão; cha con lão từng tham gia đại công trường của cả huyện, cái cách đặt tên con là Dũng, là Bút là Nghiên...chứng tỏ lão ôm ấp giấc mơ con cái đổi đời. Song, lão Khúng mới thật là một “cá thể” sinh động khi mỗi hành động của lão đều được tính toán với tư duy phản biện hai chiều “được - mất”, “hơn - thiệt”. Đấy mới là tâm lý chung của con người, sự giác ngộ qua cuộc đấu tranh tư tưởng mới thực sự chân thành và bền vững. Vì vậy, việc tác giả tái hiện những “pha” nội tâm của lão Khúng vô cùng sinh động và sắc sảo, như chi tiết lão dùng dằng rồi quyết định làm gà trong bữa cơm đầu tiên ông chủ tịch huyện “ba cùng” như thế nào; tâm trạng đau khổ của người cha khi nhận tin con trai hi sinh ở chiến trường (trong lịch sử văn học, có lẽ lão Khúng là trường hợp duy nhất được tái hiện nỗi đau của người cha mất con); tâm trạng khi lão quyết định chia tay giải phóng cho con khoang... Có thể nói, những nhân vật được thể hiện trong các tập truyện ra đời ở thập kỷ 80 của Nguyễn Minh Châu thể hiện nhận thức và khám phá thật sự mới mẻ trong quan điểm nghệ thuật về con người. Con người, đó là thế giới bí ẩn, nó không chỉ là sản phẩm của hoàn cảnh mà trước hết, là sản phẩm của tạo hóa, vì vậy, chứa đựng đầy yếu tố bất ngờ. Không thể lấy thiên kiến chủ quan để áp đặt/ sắp xếp suy nghĩ cho ai đó là điều không tưởng. Từ nhận thức về một thế giới lý tưởng sang nhận thức về một thế giới không tròn vẹn, con người “nhân vô thập toàn”, cho thấy nhà văn đang lần tìm và thể hiện sự tôn trọng thực tiễn khách quan. Không phải ngẫu nhiên năm 1985, tuần báo Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức cuộc trao đổi về truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu với sự có mặt của đông đảo những sáng tác và giới nghiên cứu, phê bình6. Ông Tổng biên tập báo Văn nghệ kỳ vọng là “sẽ rất lý thú và có ý nghĩa”, bởi “Chúng tôi cho rằng những năm vừa qua, tiểu thuyết và cả truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu có nhiều thành tựu, có nhiều đóng góp đáng quý”. Trong khí văn chương khá trầm lắng của những năm “tiền đổi mới”, Nguyễn Minh Châu đã dũng cảm đột phá vào thành trì của lối viết cũ để kiến tạo lối viết khác. Lẽ đương nhiên, sự đổi mới nào chả nhận được những luồng ý kiến trái chiều. Song, Nguyễn Minh Châu dường như đã trở thành “hiện tượng” ở thập kỷ 80 của thế kỷ trước. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Minh Châu, Tuyển tập truyện ngắn, NXB Văn học, 1999 [2] Nguyễn Minh Châu (1980),“Nhà văn, đất nước và dân tộc mình”, Văn học, (5), tr.20 - 23 [3] Nguyễn Minh Châu, Về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Trọng Hoàn, giới thiệu tuyển chọn), NXB Giáo dục, 2007. [4] Nguyễn Thị Bình, Văn xuôi Việt Nam sau 1975, NXBĐHSP, 2012. 6 Cuộc trao đổi đã được tường thuật trên hai số báo Văn nghệ 27 và 28 năm 1985.
File đính kèm:
- hanh_trinh_doi_moi_van_xuoi_sau_1975_cua_nguyen_minh_chau.pdf