Giáo trình Miễn dịch học - Đại học Y Hà Nội

Nhóm virus herpes bao gồm ít nhất 60 virus, trong đó có 5 con rất hay gây

bệnh cho người: Herpes simplex (HSV) typ 1, HSV typ 2, Varicella zoster

(VZV), cytomegalovirus (CMV) và Epstein-Barr (EBV). Có hình ảnh bệnh lý

chung cho tất cả các virus nhóm herpes ở người, đó là: Một, để truyền được

người này sang người khác phải có sự tiếp xúc gần gũi trực tiếp, trừ việc truyền

máu và ghép cơ quan là đường truyền hiệu quả nhất của CMV. Hai, sau lần

nhiễm đầu tiên virus herpes sẽ tồn tại trong cơ thể suốt đời.

Để hạn chế sự lan tỏa của virus và phòng ngæìa tái nhiễm hệ thống

miễn dịch phải có khả năng chặn đứng sự xâm nhập của các hạt virion và tế

bào cũng như loại bỏ các tế bào bị nhiễm để giảm nơi cư trú của virus. Như

vậy, các phản ứng miễn dịch có hai loại: Một loại để tác động lên các hạt

virus và một loại tác động lên tế bào nhiễm. Một cách tổng quát, đáp ứng

miễn dịch chống virion có xu hướng trội về thể dịch còn đáp ứng tế bào thì

tác dụng lên tế bào nhiễm virus. Cơ chế thể dịch chủ yếu là trung hòa, nhưng

phản ứng thực bào phụ thuộc bổ thể và phản ứng ly giải phụ thuộc bổ thể

cũng có thể xảy ra.

Trung hòa virus ngăn cản sự tiếp cận của chúng đến các tế bào đích.

Đây là chức năng của kháng thể IgG trong dịch ngoại bào và của IgA trên bề

mặt niêm mạc. Chúng ta cần nhớ rằng, chỉ những kháng thể chống lại các

thành phần chịu trách nhiệm về khả năng tiếp cận mới có tính trung hòa: Sự

tạo ra kháng thể có độ đặc hiệu chính xác là nguyên tắc cơ bản để sản xuất

vacxin virus. Những kháng thể chống lại những kháng nguyên không cần

thiết không chỉ không có tác dụng bảo vệ mà còn tạo điều kiện để hình thành

phức hợp miễn dịch.

pdf215 trang | Chuyên mục: Huyết Học và Miễn Dịch | Chia sẻ: tuando | Lượt xem: 493 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt nội dung Giáo trình Miễn dịch học - Đại học Y Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
rên bạch cầu, trong đó kháng nguyên của hệ HLA là quan trọng 
nhất. Những kháng nguyên này hiện diện trên tất cả các mô của cơ thể, 
nhưng chúng ta chỉ dễ dàng định týp HLA trên các tế bào lympho máu ngoại 
biên vì chúng chỉ có mật độ đủ lớn trên những tế bào này. Khác với hệ thống 
ABO của hồng cầu, không có kháng thể anti-HLA tự nhiên trong cơ thể 
người. Các sinh phẩm dùng để định týp là kháng thể được sản xuất do quá 
trình miễn dịch xảy ra trong truyền máu hoặc thai kỳ. Thử nghiệm thường 
dùng nhất là thử nghiệm gây độc lympho bào (lymphocytotoxic test). Tế bào 
lymphô sống được tách từ máu ngoại vi bằng ly tâm gradient tỉ trọng như đã 
đề cập ở trên. Dung dịch tế bào sau đó được trộn với các huyết thanh định 
týp khác nhau, sau đó bổ thể (người ta thường dùng huyết thanh thỏ bình 
thường để làm nguồn cung cấp bổ thể) được thêm vào. Sau khi ủ một thời 
gian ở 37oC, những tế bào được kháng thể nhận diện sẽ bị giết bằng phản 
ứng ly giải qua trung gian bổ thể. Tế bào chết được phát hiện hiện qua khả 
năng chúng không thể ngăn cản thuốc nhuộm xâm nhập. Nếu đa số (>90%) 
các tế bào bị giết bởi một kháng huyết thanh nào đó, thì điều đó có nghĩa 
rằng chúng ta đã mang HLA tương ứng nên đã bị kháng thể nhận diện. 
Thử nghiệm này chỉ được tiến hành thường quy ở những trung tâm 
chuyên khoa chuyên định týp HLA cho các trường hợp ghép cơ quan. Kỹ 
thuật đòi hỏi khá nhiều thời gian, đắt tiền và trình độ kỹ năng phải cao cũng 
như phải có nhiều kinh nghiệm trong việc đọc kết quả. Do đó trước khi đề 
nghị làm kết quả xét nghiệm này, cần phải xin ý kiến tham vấn trước, và khi 
đã được nhất trí thì phải lấy máu chống đông và gởi ngay đến cho la-bô. 
Hiện nay, việc định týp HLA được thực hiện bằng kỹ thuật PCR 
(polymerase chain reaction) để phát hiện gen HLA. Kỹ thuật này tốn 
kém hơn nhưng có độ chính xác và độ nhạy cao hơn nhiều so với các kỹ 
thuật khác. 
Khá nhiều bệnh cho thấy có sự phối hợp với những kháng nguyên HLA 
nhất định. Ví dụ, trong bệnh viêm đốt sống dính khớp, có hơn 90% bệnh 
nhân dương tính với HLA-B27, ngược với tỉ lệ thấp (8%) của HLA này 
trong nhân dân. Đây là bệnh duy nhất mà việc định týp HLA được xem là có 
ích cho chẩn đoán. Trong những bệnh khác, sự phối hợp với HLA tỏ ra yếu 
hơn nhiều. Hơn nữa, tần xuất gen (tính được qua “mức độ phổ biến” của 
kháng nguyên trong quần thể) người bình thường quá cao cho đến nỗi sự 
hiện diện của chúng không nói lên được gen đó có phối hợp với một bệnh 
nào đó sẽ xảy ra hay không. 
12.10. Sản xuất kháng huyết thanh dùng cho các phòng thí nghiệm 
miễn dịch lâm sàng 
Kháng huyết thanh được sử dụng trong những thử nghiệm nói trên 
thường được sản xuất trên động vật bằng cách cho tiêm kháng nguyên cần 
thiết. Trước đây kháng huyết thanh sản xuất trên động cơ thể chủ yếu là sản 
phẩm của đáp ứng miễn dịch đa clôn, có nghĩa là trong kháng huyết thanh có 
nhiều kháng thể được sản xuất từ nhiều clôn tế bào B khác nhau. Mặc dù các 
kháng thể này khác nhau về cấu trúc chi tiết của vùng biến đổi nhưng tất cả 
đều cho phản ứng với kháng nguyên tương ứng (người ta gọi đó là tính phản 
ứng đơn đặc hiệu). 
Hình 12.14. Nguyên lý sản xuất kháng thể đơn clôn 
Trong những năm vừa qua người ta đã tạo ra được một bước tiến quan trọng trong 
sản xuất kháng thể huyết thanh đó là sản xuất kháng thể đơn clôn, tức là kháng thể được 
sản xuất bởi chỉ một dòng tế bào, và do đó các phân tử kháng thể được sản xuất ra hoàn 
toàn giống nhau ở cả vùng thay đổi và vùng hằng định của chúng. Những kháng thể đơn 
clôn này chỉ phản ứng với một quyết định kháng nguyên nào đó trên kháng nguyên được 
dùng. Chúng ta biết rằng hỗn dịch tế bào lách của con vật được gây mẫn cảm, có chứa 
nhiều tế bào B chịu trách nhiệm sản xuất nhiều kháng thể chống nhiều epitope khác nhau 
trên kháng nguyên đưa vào. Những tế bào B này được cho liên hợp với một dòng tế bào u 
tủy không sản xuất kháng thể để tạo nên một tế bào lai mang khả năng bất tử của tương 
bào ác tính. Các tế bào lai sau đó được tách ra và chọn dòng (Hình 12.14). Việc nuôi cấy 
trên quy mô lớn có thể giúp cung cấp số lượng đáng kể các kháng thể tinh khiết và cho 
phản ứng với độ chính xác cao. Nhờ vào tiềm năng sử dụng cho chẩn đoán và điều trị 
mạnh, càng ngày người ta càng có nhu cầu sản xuất kháng thể đơn clôn người vì chỉ có 
những kháng thể này mới không tạo nguy cơ xảy ra phản ứng quá mẫn. Tuy vậy, việc sản 
xuất kháng thể đơn clôn người hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn về kỹ thuật. 
12.11. Kỹ thuật DNA tái tổ hợp và miễn dịch lâm sàng 
Những tiến bộ về sinh học phân tử trong những năm qua đã mở ra nhiều ứng dụng 
quan trọng trong chẩn đoán và điều trị các bệnh miễn dịch. Do vậy, những nhà miễn dịch 
học lâm sang cần phải hiểu những thuật ngữ và phương pháp mà những nhà sinh học 
phân tử đang sử dụng. 
12.11.1. Kỹ thuật và thuật ngữ 
Các enzym endonuclease hạn chế (restriction endonuclease) là những 
enzym lấy từ vi khuẩn có khả năng cắt chuỗi DNA tại một vị trí đặc biệt liên 
quan đến một trình tự nucleotid nhất định. Dùng những enzym này với 
những tính đặc hiệu khác nhau cho phép cắt chuỗi DNA thành từng đoạn, 
mà mỗi đoạn có chứa một gen đặc biệt cần tách ra khỏi phần còn lại của 
phân tử DNA (Hình 12.15). 
Hình 12.15. Lập bản đồ gen bằng kỹ thuật Southern Blot 
Trong kỹ thuật Southern blot, các đoạn DNA, sau khi được cắt bởi 
bằng endonuclease hạn chế, được cho điện di trên gel agarose, những đoạn 
nhỏ thì di chuyển xa hơn những đoạn lớn. Trong số những đoạn này sẽ có 
đoạn có chứa gen mà ta quan tâm. Bằng cách dùng chất kiềm ta có thể làm 
tách đôi các đoạn dsDNA ra thành các ssDNA. Sau khi blot các ssDNA sang 
giấy nitrocellulose, ta cho đoạn DNA chuỗi đơn mới được tách lai với một 
đoạn ssDNA bổ sung tương ứng đã đánh dấu. Sau khi rửa và quan sát dưới 
đèn đọc phát xạ (autoradiography) thấy có phát xạ ở vị trí nào thì đó là vị trí 
có chứa đoạn gen mà ta quan tâm. 
Có nhiều bệnh di truyền, sự khuyết tật của gen không thể biết và việc 
tìm gen khuyết tật này cũng không thực hiện được. Trong trường hợp này, 
gen gây bệnh có thể liên kết chặt chẽ với vị trí nhận diện của một endo-
nuclease hạn chế nào đó. Dùng các endonuclease đã biết để dò toàn bộ 
genome người có thể giúp tìm ra các vị trí endonuclease mới hoặc loại bỏ 
những vị trí đang tồn tại. Như vậy, những đoạn DNA tạo được do một 
enzym hạn chế nhất định sẽ có những chiều dài khác nhau trên những người 
khác nhau. Người ta gọi điều này là tính đa dạng về chiều dài đoạn hạn chế 
(restriction fragment length polymorphism, RFLP), và tính chất này được di 
truyền đơn giản theo kiểu Mendel. RFLP cung cấp cho ta một lượng lớn các 
dấu ấn liên kết (linkage marker) để tìm ra các gen gây bệnh trong gia đình, 
mà không cần phải biết gì về bản thân gen đó cả. 
Kỹ thuật DNA tái tổ hợp (recombinant DNA technology) dựa vào việc 
sử dụng plasmid như các phương tiện để truyền các đoạn DNA lạ, ví dụ gen 
người. Plasmid là những mảnh DNA hình tròn, nhỏ, xuất hiện tự nhiên trong 
bào tương của vi khuẩn. Dùng một endonuclease đặc hiệu có thể mở vòng 
plasmid này và gắn vào đó một đoạn gen người, và như vậy là ta đã tạo ra 
một phân tử DNA lai (hybrid DNA) có chức năng sinh học riêng. Nếu sau 
đó plasmid đưa được vào một loại vi khuẩn nào đó (ví dụ E. coli) thì ta có 
thể cho nuôi cấy vi khuẩn để sản xuất ra một loại các bản sao đoạn DNA đã 
gắn vào plasmid đó. Kỹ thuật DNA tái tổ hợp thường được dùng để sản xuất 
các chế phẩm sinh học tính khiết sử dụng trong chẩn đoán hoặc điều trị hoặc 
một số mục đích sinh học khác. 
12.11.2. Ứng dụng chẩn đoán 
Kỹ thuật khuyếch đại DNA đã cung cấp cho chúng ta một phương tiện 
chẩn đoán trước sinh (prenatal diagnosis) chính xác đối với các bệnh di 
truyền. Vật phẩm dùng cho chẩn đoán là mẩu mô lấy được từ gai nhau, từ kỹ 
thuật soi thai (fetoscopy) hoặc chọc túi ối (amniocentesis). Kỹ thuật này 
cũng giúp chẩn đoán ở giai đoạn tiền lâm sàng những bệnh nhiễm sắc thể có 
thời kỹ khởi bệnh muộn, bệnh phụ nữ liên quan giới tính, kể cả những thiếu 
hụt miễn dịch di truyền. 
Người ta ghi nhận rằng các thử nghiệm gen đang được sử dụng ngày 
càng nhiều cho việc chẩn đoán bệnh. Việc phát hiện ra hiện tượng tái sắp 
xếp (rearrangement) của các gen immunoglobulin và của gen thụ thể tế bào 
T (TCR gene) đã cung cấp cho chúng ta một công cụ mới để phân tích 
nguồn gốc của những tế bào lympho ác tính không mang các dấu ấn kinh 
điển của tế bào B và tế bào T, tìm nguồn gốc của tế bào ung thư trong bệnh 
bạch cầu tế bào dạng tóc (hairy cell leukemia) và những cơn tăng dữ dội các 
nguyên bào trong bệnh bạch cầu tủy mạn. Ngoài ra, thử nghiệm gen cũng 
giúp ta phân biệt các bệnh tăng sinh lympho đa clôn và đơn clôn. 
12.11.3. Ứng dụng điều trị 
Kỹ thuật DNA tái tổ hợp đã mang lại nhiều tiến bộ trong điều trị thông qua việc 
tổng hợp các hợp chất sinh học hoặc liệu pháp gen. 
Sinh tổng hợp có được tiến hành bằng cách gắn một gen người vào một 
plasmid làm vật truyền và sau đó cho nhân lên thành clôn. Có nhiều loại 
hormone (ví dụ insulin) và thuốc điều hòa miễn dịch (ví dụ interferon) đã 
được tổng hợp theo cách này. Một ứng dụng quan trọng của phương pháp 
này sẽ là ứng dụng trong sản xuất vắc xin. Một khi chúng ta đã xác định 
được những kháng nguyên vi khuẩn có khả năng gây miễn dịch bảo vệ thì 
chúng ta có thể tạo clôn được với những gen tương ứng. Một vắc-xin tái tổ 
hợp đã được sản xuất và dùng phổ biến là vắc xin viêm gan B. Hiện nay các 
nhà nghiên cứu đang cố gắng để tìm ra những vắc xin có hiệu quả khác 
nhằm chống lại các bệnh nhiễm trùng phổ biến trên thế giới như vắc-xin sốt 
rét và HIV. 
Một mục đích của công nghệ gen là thay thế được những gen bị khiếm 
khuyết trong cơ thể con người. Liệu pháp gen hiện đang còn nhiều tranh cãi 
nhưng những rối loạn miễn dịch như thiếu hụt adenosine deaminase hoặc 
purine nucleoside phosphorylase đang là những ứng cử viên quan trọng đầu 
tiên cho việc sử dụng liệu pháp này để điều trị. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_mien_dich_hoc_dai_hoc_y_ha_noi.pdf