Điển cố trong "Lộc Minh đình thi thảo" của Ưng Bình Thúc Giạ Thị
TÓM TẮT
Lộc Minh đình thi thảo là một tập với 197 bài của Ưng Bình Thúc Giạ Thị, một trong
những tập thơ chữ Hán cuối cùng của văn học Hán Nôm. Tập thơ có giá trị nhiều mặt về
ngôn ngữ, nghệ thuật Trong đó, khai thác giá trị nghệ thuật ở việc sử dụng điển cố, điển
tích phần nào giúp độc giả dễ dàng tiếp cận với các bài thơ trong văn bản Lộc Minh đình
thi thảo.
Khảo cứu, đánh giá cách sử dụng điển cố của Ưng Bình Thúc Giạ Thị trong Lộc Minh
đình thi thảo nhằm giúp cho người đọc hiểu rõ hơn những thủ pháp nghệ thuật trong thơ
ca Hán Nôm, (gọi chung là văn học Hán Nôm) của các tác giả thời phong kiến. Đặc biệt,
là biện pháp sử dụng điển tích điển cố để làm cho câu văn, câu thơ trở nên súc tích. Làm
cho người đọc càng đọc càng muốn đi sâu tìm hiểu cho tường căn nguyên.
í tiết của Bá Di và Thúc Tề. Hay như trong bài Bính dần niên xuân Đinh tế ngẫu thành, tác giả đã mượn tên triều đại nhà Đường Ngu ở Trung Quốc để nói tới ngày tế lễ của Khổng tử, bên cạnh đó tác giả mượn địa danh Khuyết Lý, một địa điểm mà Khổng tử đã từng dạy học ở Sơn Đông. 3.1.3. Mượn địa danh gắn với điển tích danh nhân Có nhiều địa danh ở Trung Quốc cũng gắn liền với nhiều danh nhân nổi tiếng như Tô Thức đi chơi thuyền đến bến Xích Bích, để nhắc lại việc tác giả đi thăm bạn ở bệnh viện Lâm Viên tỉnh Quảng Trị nơi ông Phan Kính Chỉ làm việc ở đây. Hay ông nhắc đến Ngũ Hồ một địa danh nổi tiếng mà Phạm Lãi đã đến du ngoạn. Hay Lầu Hoàng Hạc, nơi Thôi Hiệu đã đến và đề bài thơ Hoàng Hạc lâu vang danh một thời. Trong bài Ngày 11 tháng 11 mùa đông năm Giáp Tuất (1934), đáp lại thư mời rượu của tiên sinh Song Cử, tác giả đã mượn nhân vật Bàng Sinh: tức Bàng Đức Công, người Tương Dương, là ẩn sĩ thời Đông Hán, làm quan thứ sử ở Kinh Châu không chịu khuất phục đem vợ con lên núi Lộc Môn hái thuốc không về, qua đó để chỉ cái cốt cách của người quân tử. 3.1.4. Mượn các thành ngữ, câu chuyện Nhiều bài thơ tác giả đã mượn những câu thành ngữ để dẫn dụng ý nghĩa của bài thơ, như việc mừng thọ bạn thì ông mượn thành ngữ hải ốc thiêm trù, hoặc hải hạc thiêm trù. Chỉ cuộc đời như giấc mộng thì tác giả dẫn dụng câu chuyện kê vàng hay hoàng lương, chỉ tình anh em thì tác giả dùng câu: 風 剪 一 枝 荊 phong tiễn nhất chi kinh: gió chặt một cành kinh. Xưa anh em Điền Chân lúc còn ở với nhau thì cây Kinh trước nhà xanh tốt, lúc chia nhau ra ở riêng thì cây héo úa, đời sau dùng cây Kinh để chỉ tình anh em hoà thuận. Thể hiện rõ nhất tình cảm của tác giả chính là bài Xả đệ Thượng thư Thúc Thuyên lụy bi. Trong bài Vâng họa thơ của chú ruột là Quýnh Hiên Hồng Trứ bước vào tuồi 70 tác giả đã dùng thành ngữ 海 屋 籌 添 hải ốc thiêm trù: “有三 人 相 遇 問 年 其 一 曰: 海 水 變 桑 田, 吾 輒 下 一 籌, 今 滿 十 籌 矣, (按 今 祝 人 壽 考) 曰: “海 屋 籌 添”. Có ba người gặp nhau hỏi về tuổi tác, người thứ nhất nói: Nước biển biến thành ruộng dâu, ta liền bỏ một cái thẻ bây giờ đã đầy mười cái rồi nghĩa là tròn 100 tuổi. Ngày nay dựa vào đó để chúc thọ nên viết là hải ốc thiêm trù. Cũng trong bài này tác giả mượn câu 趾 有 麟chỉ hữu lân: lấy ý trong Kinh Thi bài 麟之趾 Lân chi chỉ: 麟之趾, 振振公子,于嗟麟兮. Lân chi chỉ, Chân chân công tử, Hu ta lân hề. (Chân của con lân, Con của Văn Vương nhân hậu, Ôi như con lân vậy thay. Văn Vương và Hậu Phi lấy đức hạnh tu thân, mà con cháu tông tộc đều hóa ra hiền lành. Cho nên nhà thơ mới lấy chân con lân mà khởi hứng tích trên ứng với con cháu nhà Nguyễn. Hay trong bài họa với cụ Huỳnh Thúc 126 Kháng tác giả đã mượn ý trong kinh thi “Hạc minh ư cữu cao – Hạc kêu ở đầm sâu, tiếng vọng tới trời cao”, loài hạc là giống thanh cao, dùng để nói sánh với hiền nhân quân tử và kẻ sĩ ẩn dật, hạc cũng là sự tượng trưng cho sự trường thọ vững bền. Chính vì quan tâm lo lắng trước cảnh đất nước có nhiều biến động, nên Ưng Bình đã dùng hình ảnh con hạc để thể hiện tình cảm của mình với cụ Huỳnh. 3.2. Mượn điển cố Việt Nam Ngoài việc tác giả mượn những điển cố, điển tích của Trung Quốc, trong Lộc Minh đình thi thảo ta còn thấy xuất hiện nhiều địa danh, nhiều nhân vật, nhiều di tích, nhiều thi liệu trong văn học cổ Việt Nam. Chẳng hạn nhắc đến địa danh: Huế, Quảng Trị, Hải Vân, Thuận An, Cầu Hai, Phan Rang, Phan Thiết, Nhắc đến nhân vật: Nguyễn Khoa Chiêm, Phan Kính Chỉ, Mính Viên Huỳnh Thúc Kháng, Nhắc đến di tích: Thiên Mụ, Chùa Tra Am, Hay việc ông đã ca ngợi Nguyễn Khoa Kỳ nguyên Bộ trưởng Bộ Kinh tế, nhưng lại có tấm lòng yêu đạo Phật, ông thường hay qua lại chùa An Lạc để cầu kinh niệm phật. Nên trong bài thơ: 留 題 安 樂 寺 (寺 主 經 濟 部 尚 書 阮 科 淇) Lưu đề An Lạc tự tự chủ Kinh tế bộ Thượng thư Nguyễn Khoa Kì, ông đã viết: 身是冢 臣 心 是佛, 日談經 濟夜 談 經 (Thân là quan lớn tâm là phật, Ngày bàn kinh tế tối bàn Kinh Phật), ngôi chùa An Lạc cũng được tác giả nhắc đến 安 樂 寺, 坐 落 近 阮 科 墓 地 之 西 北 向 而 此 墓 地 一 大 頃 屬 於 安 舊 社 四 西 邑, 相 傳 內 贊 侯 阮 科 登 大 人 前 日 蒙 封 之 茅 土 也. 顯 尊 孝 明 皇 帝 辰, 阮 科 登 官 正 營 內 贊, 兼 按 察 使 延 祥 侯, 仍 辰 人 及 後 人 常 稱 呼 為 內 赞 侯, 又 常 歌 颂 功 德 有 句 云: 傷 英 岄 拱 悶 無, 峣 鐘 茄 胡 峣 破 三 江, 又 云: 破 三 江 挦 哰 乑 喼, 鐘 茄 胡 內 贊 禁 嚴. Chùa An Lạc nằm gần phía tây bắc hướng nghĩa địa của họ Nguyễn Khoa. Nghĩa địa này một phần lớn thuộc thôn Tứ Tây xã An Cựu. Tương truyền đây là phần đất tấn phong cho quan lớn Nguyễn Khoa Đăng, thời Hoàng Đế Hiển Tôn Hiếu Minh. Nguyễn Khoa Đăng làm chức quan Chánh dinh nội tán kiêm Án sát sứ Diên Tường hầu, người đương thời và người đời sau thường xưng hô là Nội tán hầu, lại có câu thơ ca tụng công đức: “Thương anh em cũng muốn vô, sợ chuông nhà Hồ sợ phá Tam Giang”, lại nói rằng: “Phá Tam Giang ngày nay đã cạn, Chuông nhà Hồ Nội Tán cấm nghiêm”. Người đọc cũng dễ nhận ra tinh thần nhà Phật mà tác giả nhắc đến trong các bài thơ. Gần nhà Ưng Bình có chùa Ba La nên ông cũng hay qua chùa ngắm cảnh kết giao với hòa thượng Thích Trí Thủ, đàm đạo về kinh phật, về lẽ uyên nguyên của Phật pháp. Trong bài Đầu mùa hạ năm Quí dậu (1933), cùng Nại Viên Ưng Nghệ, Lan Đình Ưng Bộ, Thúc Đồng Ưng Loại, Thanh Chi Ưng Thông, theo quan Án sát Bình Định là Chiêm Thiết, quan Lệnh doãn Phù Cát là Sái Văn Chánh lên thăm chùa cổ Linh Phong, có câu石 室 長 留 大 士 名 (thạch thất trường lưu đại sĩ danh - Trong động đá đời đời lưu danh Quan Thế Âm bồ tát), khi Ưng Bình đến chùa Linh Phong, tác giả đã sử dụng hai từ “đại sĩ” để nói đến Quan Thế Âm, và ông mong ước đời này tu được đắc đạo như Phật bà. 127 Còn rất nhiều bài thơ khác mà tác giả đã sử dụng ý thơ hay một câu chuyện cũ để nói lên cảm xúc của mình, đó là những tâm sự đã gửi vào vần thơ ông một cách dung dị. 4. THAY LỜI KỀT Việc tìm hiểu điển tích điển cố trong văn học cổ điển, đặc biệt là những sáng tác bằng chữ Hán, chữ Nôm sẽ giúp cho quá trình minh giải văn bản được rõ ý và nó là chất xúc tác để tăng giá trị nghệ thuật của tác phẩm. Vì thế, nghiên cứu điển cố văn học và việc sử dụng điển cố là một việc làm cần thiết. Lộc Minh đình thi thảo đã chứa đựng nhiều kiến thức về văn học, triết học, y học, phật giáo, mĩ học mà chủ nhân của nó đã vận dụng linh hoạt từ những điển tích, điển cố đế bồi đắp nên một tác phẩm xứng đáng là sáng tác cuối cùng của nền văn học trung đại. Có thể nói, tác phẩm đã mang lại nhiều giá trị biểu cảm, trong đó nổi bật nhất là nghệ thuật sử dụng điển cố. Ưng Bình có một nền kiến thức sâu rộng về Hán học, về thơ cổ Trung Quốc, biết tiếp thu và vận dụng thơ Đường vào trong sáng tác thơ của mình. Ông đã chịu ảnh hưởng rất lớn từ thơ Đường, kế thừa thơ Đường, nhưng lại tạo cho mình những nét riêng, bởi thơ hay là ở sự thành thực của người cầm bút, lời thơ không gượng ép, trau chuốt mà giản dị. Từ ngữ trong thơ cũng không quá phóng khoáng. Có lẽ vì thế mà tập thơ tuy làm bằng chữ Hán, theo thể Đường luật, sử dụng nhiều điển tích, điển cố nhưng do xuất phát từ chân tình của tác giả nên khi đọc lên chúng ta vẫn thấy những nét riêng của sông núi miền Trung nước Việt. Chú thích: 1. Nguyễn Huy Khuyến, (2006), Phiên âm dịch nghĩa quyển nhị tác phẩm Lộc Minh đình thi thảo, (Khóa luận tốt nghiệp đại học), Huế. 2. Ở trong các tài liệu trích dẫn này, chúng tôi chỉ xin trích dịch và tạm dịch. 3. Dương Quảng Hàm, (1986), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ giáo dục – Trung tâm học liệu, tr 183. 4. Trung tâm từ điển học và NXB Giáo dục, tr 308, Hà Nội 1994. 5. Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm, (1995), NXB Giáo dục. 6. Những thế giới nghệ thuật thơ, (1995), NXB Giáo dục. 7. Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, (1993), NXB Giáo dục. 8. Nguyễn Xuân Tùng, (2005), Những nét đặc sắc của tác phẩm Ưng Bình Thúc Giạ Thị. 9. Nguyễn Xuân Tùng, sđd. 10. Đây là bài thơ thuộc về yến ẩm với tân khách. Bởi vì giữa vua và tôi thì lấy nghiêm làm chủ yếu. Còn nghi lễ ở triều đình thì lấy kính làm chủ yếu. Nhưng nếu nhất nhất chỉ lấy nghiêm và kính, thì tâm tình hoặc có chỗ không thông cảm nhau mà sẽ không có lợi ích về việc tấu cáo hết dạ trung thành. Cho nên những bậc vua đời 128 trước nhân những buổi hội họp ăn uống chung với nhau mà chế ra nghi lễ của yến hội cho tâm tình giữa vua và tôi được thông cảm nhau. Mà phần nhạc ca lấy lại việc con hươu kêu khởi hứng để nói cái ý của nghi lễ đã nồng hậu như thế, ngõ hầu mọi người đều mến mà chỉ cho vua nẻo đường to tát. [Khổng Tử, (Tạ Quang Phát dịch), (1992) Kinh thi, NXB Văn học]. Mượn điển cố này Ưng Bình đã thể hiện nỗi tâm tư của ông như lời chú thích ở cuối bài thơ Phụng họa Châu Khuê tiên sinh Tân Tị xuân thủ thí bút nguyên vận. Đình Lộc Minh ở vườn nhà Ưng Bình cũng dùng để tiếp khách và đãi khách. Còn về cái tên Lộc Minh của tập thơ, theo chúng tôi nghĩ đây cũng mượn thể hứng để tạo ra niềm hứng khởi trong tập thơ của mình. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Dương Văn An (2001), Ô châu cận lục, NXB Thuận Hóa - Huế. 2. Thiều Chửu (2002), Từ điển Hán Việt, NXB Văn hóa Thông tin. 3. Phạm Văn Hảo (2004), Sổ tay từ ngữ lịch sử quan chế, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội. 4. Bửu Kế (1999), Từ điển Hán Việt từ nguyên, NXB Thuận Hóa - Huế. 5. Tôn Nữ Hỷ Khương (2002), Hồi ức cha tôi, Ưng Bình Thúc Dạ Thị, NXB Văn Nghệ TP.HCM. 6. Hà Xuân Liêm (2005), Khảo luận về Ưng Bình Thúc Dạ Thị, NXB Thuận Hóa Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ Đông tây. 7. Hà Minh Phương - Trần Kiết Hùng (1996), Đường tống bát đại gia, NXB Đồng Nai. 8. Trần Trọng Sâm (2000), Cổ văn trung quốc chọn lọc, NXB Văn hóa Thông tin Hà Nội. 9. Hoành Đường Thoái Sĩ – Ngô Văn Phú (2000), Đường thi tam bách thủ, NXB Hội Nhà Văn. 10. Dương Quảng Hàm, (1986) Việt Nam văn học sử yếu, Bộ Giáo dục – Trung tâm Học liệu. 11. Đặng Đức Siêu, (1995), Cơ sở Ngữ văn Hán Nôm, NXB Giáo dục. 12. Nguyễn Ngọc San, (1993), Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, NXB Giáo dục.
File đính kèm:
- dien_co_trong_loc_minh_dinh_thi_thao_cua_ung_binh_thuc_gia_t.pdf