Di cư và phát triển: Lao động di cư Việt Nam ở Thái Lan
“Bây giờ cảnh sát và quân đội đi bắt người bất kể giờ giấc, 2-3 giờ sáng mà
dân hàng rong nhập cư còn phải chạy trốn gần chết. Dân Việt Nam bán trái cây,
nước lựu, chanh khu Pratunam - nơi tập trung đông khách du lịch - cũng sợ quá
trốn về nước gần hết. Riêng tụi tôi không dám ngủ lại khu trọ nữa mà phải qua
nhà một người Thái xin tạm lánh”.(1) Đó là tâm sự đầy lo lắng nói lên muôn vàn
khó khăn của làn sóng những người Việt Nam di cư sang Thái Lan lao động không
phép, nhất là trong lúc chính phủ Thái Lan tăng cường thắt chặt quản lý tình hình
lao động nước ngoài bất hợp pháp tại Thái Lan hiện nay. Người đứng đầu bộ phận
nhập cư của cảnh sát Thái Lan phát biểu trên một kênh truyền hình: “Chúng tôi
nhận được nhiều khiếu nại về lao động nhập cư bất hợp pháp làm việc ở các khu
chợ, trong đó có người Myanmar, Campuchia, Việt Nam và cả một số quốc gia
Nam Á. Họ đang cướp công việc của người Thái. Lẽ ra, họ nên làm những công
việc mà người Thái không muốn làm như lau dọn nhà cửa”.(2)
an”, “Hội Người Việt ở Thái”, “Hội Đồng hương Hà Tĩnh ở Thái Lan”, “Hiệp hội Công giáo Việt Nam tại Thái Lan”.... Đây không chỉ là những địa chỉ chia sẻ thông tin thường nhật, mà còn giúp giải quyết những tình huống khó khăn, khủng hoảng, hoặc thay đổi chính sách liên quan (xem thêm các ví dụ Le Duc 2016). Thêm nữa, việc kết nối và phát huy vai trò và đóng góp tích cực của lao động di cư trở về cho Việt Nam cần được quan tâm. Người lao động di cư khi trở về có tác phong, tư duy, kiến thức, kỹ năng, mạng lưới mới cần được hỗ trợ tái hòa nhập, tài chính và các cơ chế hợp lý để có thể phát triển trong các lĩnh vực của họ. Nghiên cứu của ILO, IOM và UN Women (2014) chỉ rõ: “Phần lớn người di cư Việt Nam trở về quay lại với các công việc lao động phổ thông, các công việc mà họ đã làm trước khi di cư và không liên quan đến kỹ năng và kiến thức mà họ tiếp thu được khi làm việc ở nước ngoài. Nguyên nhân là do người lao động trở về không thể áp 75Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016 dụng được kỹ năng và tác phong làm việc ở nước ngoài vào điều kiện làm việc ở Việt Nam hoặc để khởi sự kinh doanh. Bên cạnh đó, phần lớn người lao động xuất thân từ nông thôn, và do đó họ cần học hỏi các mô hình kinh doanh phù hợp với nông thôn, cũng như các cách thức giải quyết các khó khăn khi kinh doanh trong môi truờng này.” 5. Kết luận Làn sóng di cư của người Việt sang Thái Lan lần thứ tư, đặc trưng bởi di cư lao động, được thúc đẩy bởi các nhân tố cầu đẩy và cầu kéo của phát triển và hội nhập khu vực, của Tiểu vùng Mê Kông, những điều kiện và nhu cầu phát triển của xã hội Việt Nam và sức thu hút của nền kinh tế và xã hội Thái Lan. Giai đoạn đầu của làn sóng di cư lao động này được thực hiện qua kênh phi chính thức nhưng cũng đã có tác động phát triển tích cực ở các cấp vi mô và vĩ mô. Việc triển khai các thỏa thuận hợp tác lao động giữa hai nước trong thời gian tới có thể chuyển làn sóng lao động di dân hiện nay sang một giai đoạn mới cả về số lượng và chất lượng, mang lại lợi ích cho cả hai nước và thúc đẩy sự phát triển của vùng. Đặt di cư và phát triển trong mối tác động qua lại giữa chúng và với bối cảnh quốc gia, khu vực và thế giới cho phép tư duy nghiên cứu và xây dựng chính sách vượt lên các quan điểm cực đoan hoặc lạc quan hoặc bi quan, không thiên vị theo cách tiếp cận tân cổ điển hay cấu trúc-lịch sử. Di cư cần xem xét và tích hợp toàn diện các mặt của phát triển bền vững, bao gồm lao động trẻ em, phát triển phụ nữ, quyền của người lao động và các thành viên gia đình họ, bảo vệ môi trường..., trong đó có tính đến lao động xuyên quốc gia (transnational). Di cư khu vực cần tiếp tục xây dựng các chính sách “đảm bảo cho các kênh di cư trở nên an toàn hơn, dễ quản lý hơn, và minh bạch hơn thông qua việc mở rộng phạm vi của MRA (Thỏa thuận công nhận tay nghề tương đương) để bao gồm cả những lao động tay nghề thấp và trung bình” (ILO và ADB 2014). Thúc đẩy di cư lao động người Việt sang Thái Lan cần chú trọng phát huy mạng lưới quan hệ với lớp người Việt cũ như Youn Kao và Youn Op Pha Yop, sử dụng mạng xã hội, và xây dựng các cơ chế thúc đẩy vai trò và đóng góp tích cực của lao động di cư trở về cho Việt Nam. N Q H CHÚ THÍCH (1) “Thái Lan truy quét lao động chui, hàng rong Việt Nam lao đao”, Thanh niên Online, ngày 27/5/2016. (2) “Thái Lan siết chặt lao động nhập cư”, Người lao động, ngày 29/9/2016. (3) Có 4 trung tâm và 5 doanh nghiệp được cấp phép đưa lao động Việt Nam sang Thái Lan, bao gồm: Trung tâm Lao động ngoài nước (thuộc Bộ Lao động), Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Nghệ An (thuộc Sở Lao động Nghệ An), Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Hà Tĩnh (thuộc Sở Lao động Hà Tĩnh), Trung tâm Dịch vụ việc làm tỉnh Quảng Bình (thuộc Sở Lao động Quảng Bình), và các công ty SONA, TTLC, Thinh Long Corp, Hoang Long Huresu, VIHATICO. 76 Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016 (4) Được biết đến như là ngôi làng người Việt. (5) Những con đường dẫn người Việt Nam sang Lào, rồi sau đó sang Thái Lan bao gồm: đường số 8 (Nghệ An/Hà Tĩnh - Thakhaek), đường số 12 (Quảng Bình - Thakhaek), và đường số 9 (Quảng Trị/Huế - Muddahan). (6) “Dắt nhau sang Thái Lan tìm việc”, Người lao động, ngày 07/5/2016, trình bày chi tiết: “Hà Tĩnh là địa phương có lượng người sang Thái Lan mưu sinh lớn. Theo Sở Lao động, Thương binh và Xã hội tỉnh Hà Tĩnh, hiện có khoảng 10.000 lao động của tỉnh đang làm việc ở Thái Lan. Trong đó nhiều nhất là huyện Can Lộc với gần 4.000 người; kế đến là Thạch Hà với 2.500 người, Lộc Hà có 2.000 người, Cẩm Xuyên trên 1.000 người.... Thanh Hóa, Quảng Bình, Nghệ An cũng có đông lao động sang Thái. Hằng năm, mỗi địa phương có khoảng 10.000 lượt lao động xuất cảnh.... Trước khi nhập cảnh Thái Lan, người lao động đến các cửa khẩu xin visa lao động ngắn hạn (28 ngày). Việc xin visa khá dễ, chi phí khoảng 70 USD. Mức thu nhập bình quân của lao động phổ thông Việt Nam tại Thái Lan hiện khoảng 8-10 triệu đồng/tháng; lao động có tay nghề cao gấp 1,5-2 lần. Nhờ dễ dàng xuất cảnh lại có thu nhập khá nên ngày càng có đông người bỏ làng quê để sang Thái Lan.” (7) Có 4 hình thức đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài: qua doanh nghiệp dịch vụ hoặc tổ chức sự nghiệp được phép đưa người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài; qua doanh nghiệp trúng thầu, nhận thầu, đầu tư ra nước ngoài; qua doanh nghiệp đưa người lao động đi làm việc dưới hình thức thực tập sinh nâng cao tay nghề; và đi làm việc theo hợp đồng cá nhân (Cục Lãnh sự 2011). (8) Hiện ở tỉnh Udon Thani có 4 tổ chức hội hoạt động, bao gồm: Hội Việt kiều, Hội Doanh nhân Thái-Việt, Hội Người Việt cao tuổi, và Ban quản lý Khu Lịch sử Hồ Chí Minh (Phan Thị Hồng Xuân 2015). (9) Hiện có khoảng 20 nhóm Công giáo người Việt sinh hoạt định kỳ tại các quận ở Bangkok và các tỉnh lân cận (Le Duc 2016). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bruneau, Michel. 2009. Lưu động, di cư và nghèo khó ở Ðông Nam Á. CNRS, Ðại học tổng hợp Bordeaux. 2. Cục Lãnh sự. 2011. Báo cáo tổng quan về tình hình di cư của công dân Việt Nam ra nước ngoài. Hà Nội: Bộ Ngoại giao Việt Nam. 3. De Haas, Hein. 2007. Remittances, Migration and Social Development: A Conceptual Review of the Literature. Social Policy and Development Programme Paper Number 34. United Nations Research Institute for Social Development. 4. De Haas, Hein. 2010. Migration and Development: A Theoretical Perspective. International Migration Review 44(1): 227-264. 5. De Haas, Hein. 2012. The Migration and Development Pendulum: A Critical View on Research and Policy. International Migration 50(3): 8-25. 6. ILO và ADB. 2014. Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới thịnh vượng chung và việc làm tốt hơn. Hà Nội: ILO. 7. ILO, IOM và UN Women. 2014. Tóm tắt thảo luận chính sách: Để người lao động di cư trở về đóng góp tích cực cho Việt Nam. Hà Nội: ILO. 8. Le Duc, Anthony. 2016. The role of social media in community buidling for illegal Vietnamese migrant workers in Thailand. Journal of Identity and Migration Studies 10(1): 4-21. 77Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển, số 6 (132) . 2016 9. Lê Ngọc Đức. 2015. Những cơ hội và thách đố cho lao động di dân Việt Nam ở Thái Lan. nam-tai-thai-lan-845.html. 10. Nguyen, Nancy Huyen và Walsh, John. 2014. Vietnamese Migrant Workers in Thailand - Implications for Leveraging Migration for Development. Journal of Identity and Migration Studies 8(1): 68-93. 11. Phan Thị Hồng Xuân. 2015. The role and status of the Vietnamese community in Thailand: The case study of the Vietnamese people in Udon Thani. Faculty of Anthropology, the University of Social Sciences and Humanities, Vietnam National University-Ho Chi Minh City, Vietnam. 12. Poole, Peter A. 1970. The Vietnamese in Thailand: A histrorical perspective. Ithaca: Cornell University Press. 13. SERC. 2010. A Comparative Picture of Migration in Laos, Myanmar, Cambodia, Vietnam and Thailand: Summary. www.SERCASIA.com. 14. Sripana, Thanyathip. 2004. The Vietnamese in Thailand: A cultural bridge in Thai- Vietnamese relationship. Journal of Science, Social Science and Humanities, Vietnam National University 3E: 49-64. 15. Sripana, Thanyathip. 2013. Tracing Hồ Chí Minh’s Sojourn in Siam. Southeast Asian Studies 2(3): 527-558. 16. Wise, Raúl Delgado và Humberto Márquez Covarrubias. 2009. Understanding the relationship between Migration and development: Toward a New Theoretical Approach. Social Analysis 53(3): 85-105. TÓM TẮT Làn sóng di cư người Việt sang Thái Lan lần thứ tư bắt đầu trong những năm gần đây với đặc trưng là lao động di cư từ các tỉnh miền Trung Việt Nam. Việc đẩy mạnh hợp tác trong lao động giữa hai nước không chỉ là mở ra cánh cửa xuất khẩu lao động cho Việt Nam, mà còn có thể là một giải pháp tiến tới chấm dứt tình trạng lao động bất hợp pháp cũng như bảo vệ quyền lợi của người lao động di cư. Bài viết này cố gắng kết nối các vấn đề di cư, lao động di cư với các vấn đề về phát triển. Trên nền tảng lý thuyết đó, thông qua phân tích trường hợp nghiên cứu lao động di cư Việt Nam ở Thái Lan, bài viết đưa ra những gợi ý chính sách và hướng nghiên cứu trong thời gian đến. ABSTRACT IMMIGRATION AND DEVELOPMENT: VIETNAMESE MIGRANT WORKERS IN THAILAND The last few years have witnessed the forth immigration wave of Vietnamese to Thailand: labour migration from Central Vietnam. Strengthening labour cooperation between the two countries would not only open the new gate for Vietnamese labour migration abroad, but also address the current trend of illegal labour migration as well as protect the rights of migrant workers. This paper attempts to integrate migration, labour migrants abroad into development issues. Grounded on such a conceptual framework and through the analysis of Vietnamese migrant workers in Thailand, this paper highlights recommendations for policy planning and research direction for the future.
File đính kèm:
- di_cu_va_phat_trien_lao_dong_di_cu_viet_nam_o_thai_lan.pdf