Chủ nghĩa trọng thương Tây Ban Nha (Thế kỉ XVII - XVIII) và những bài học từ lịch sử
Tóm tắt. Chủ nghĩa trọng thương là học thuyết kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản, được
áp dụng rộng rãi ở châu Âu từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII. Hệ thống tư tưởng này thúc đẩy
việc chính quyền điều phối nền kinh tế quốc gia với mục đích làm tăng quyền lực nhà nước
đó bằng việc làm suy giảm sức mạnh của các nước khác. Nó biện luận về mặt lí thuyết cho
quá trình tích lũy nguyên thủy tư bản. Nhưng ở mỗi nước, chủ nghĩa trọng thương lại được
áp dụng một cách khác nhau, đưa đến những chính sách kinh tế khác nhau. Sự khác biệt
của chủ nghĩa trọng thương Tây Ban Nha (chủ nghĩa trọng kim) là một trong những nguyên
nhân lí giải cho sự đổ vỡ nhanh chóng của nền kinh tế Tây Ban Nha thời kì đế quốc.
y trở lại Tây Ban Nha dưới triều đại Bourbons. Cải cách tự do thương mại do vua Charles III tiến hành đã mang lại 122 Chủ nghĩa trọng thương Tây Ban Nha (thế kỉ XVII - XVIII) và những bài học từ lịch sử chút gam màu tươi sáng hơn cho bức tranh kinh tế ảm đạm của Tây Ban Nha cuối thế kỉ XVIII. Nhưng những cải cách này được ban hành quá muộn, nó không đủ sức cứu vãn thương mại nói riêng và kinh tế Tây Ban Nha nói chung đang trên đà tuột dốc. Điều làm cho Tây Ban Nha “nghèo đi” chính lại là “sự giàu có” của nó trước đó. Điều này nghe có vẻ mâu thuẫn, nhưng lại hoàn toàn hợp lí nếu chúng ta xem xét tình hình hoạt động thương mại của Tây Ban Nha trong các thế kỉ XVI, XVII, XVIII. Trong chưa đầy một thế kỉ, Tây Ban Nha đã từ đỉnh cao của vinh quang lao dốc nhanh chóng, “sự sụp đổ của Tây Ban Nha đã diễn ra quá đột ngột đến nỗi chính những người Tây Ban Nha cũng phải thắc mắc: Phải chăng thành tựu ban đầu chỉ là một engano – một ảo ảnh?” (dẫn theo) [6; 526]. 2.4. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn khi nghiên cứu lí thuyết trọng thương (qua trường hợp Tây Ban Nha thế kỉ XVII – XVIII) trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay Cho đến hiện nay, những giá trị cốt lõi của các chính sách kinh tế mà các nhà trọng thương vạch ra vẫn có thể được tìm thấy trong các chính sách kinh tế đương đại. Nhiều chính sách kinh tế của các nhà nước ngày nay vẫn kế thừa những tư tưởng trọng thương, thậm chí cả những tư tưởng bảo hộ của các nhà trọng thương. Đối với nền kinh tế Việt Nam trong thời kì đổi mới, trên cơ sở các chính sách của chủ nghĩa trọng thương cũng rút ra một số gợi ý cho chính sách của Việt Nam như: gợi ý về giải quyết vấn đề tự do hóa thương mại hay bảo hộ mậu dịch, về chiến lược phát triển kinh tế sản xuất thay thế hàng nhập khẩu và sản xuất hướng về xuất khẩu cũng như về vai trò của nhà nước điều tiết kinh tế và thúc đẩy phát triển ngoại thương. Trong bối cảnh đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, những gợi ý này vẫn còn nhiều ý nghĩa và khả năng vận dụng vào quá trình phát triển kinh tế Việt Nam hiện nay: Thứ nhất, Việt Nam xuất phát từ nước kinh tế lạc hậu, chịu hậu quả nặng nề từ chiến tranh nên thương mại của nước ta kém phát triển. Trước đổi mới, do sai lầm trong tư duy, nhận thức, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện chính sách đóng cửa nền kinh tế, mọi hoạt động của nền kinh tế đều nhỏ hẹp. Chính điều này đã kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước, làm cho kinh tế tụt hậu quá xa so với thế giới. Đến Đại hội Đảng lần thứ VI (năm 1986), Đảng và Nhà nước quyết định chuyển đổi cơ cấu kinh tế, từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa giao lưu kinh tế với nước ngoài. Các văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, IX, X, XI, XII đều khẳng định phát triển kinh tế đối ngoại là một tất yếu khách quan nhằm phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung, xây dựng đất nước, để phát triển kinh tế đối ngoại cần phải xử lí hợp lí mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị; tích cực và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời phải phát huy ý chí tự lực, tự cường, kết hợp sức mạnh của dân tộc với thời đại, triệt để khai thác những lợi thế khu vực và thế giới, chủ trương mở rộng diện bạn hàng, đối tượng hợp tác, đa phương hóa các mối quan hệ kinh tế đối ngoại, phù hợp với cơ chế thị trường, trên nguyên tắc bình đẳng các bên cùng có lợi. Chủ trương đổi mới cơ chế quản lí kinh tế đối ngoại phù hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thực tế, không chỉ dừng lại ở chủ trương, đường lối mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện những chính sách kinh tế cụ thể. Sau khi mở cửa, Việt Nam từng bước hội nhập với các tổ chức quốc tế trong khu vực và toàn cầu như ASEAN, APEC, WTO. . . Thứ hai, thực tiễn ở Việt Nam cũng cho thấy, nắm giữ vàng bạc không phải là chính sách hợp lí nhằm phát triển đất nước. Quan niệm về một quốc gia giàu có không chỉ là nước có nhiều kim loại quý mà là dân nước đó có cuộc sống sung túc, ấm no; khoa học công nghệ hiện đại, đem lại năng suất cao và giảm bớt cực nhọc cho người lao động. Việt Nam là một nước đang phát triển 123 Phạm Thị Thanh Huyền có nguồn lao động dồi dào, nhưng lại khan hiếm về vốn và yếu về công nghệ. Nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chúng ta cần nhiều vốn để nhập khẩu máy móc, thiết bị công nghệ. Để làm được như vậy, cần phải đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng sử dụng nhiều lao động, những sản phẩm có lợi thế so sánh, để đổi lấy ngoại tệ, dùng cho nhập khẩu. Trong giai đoạn này, tình trạng nhập siêu, tức là giá trị nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu là một điều khó tránh khỏi. Thứ ba, các chính sách điều tiết kinh tế và bảo hộ lao động thương mại tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước thâm nhập và mở rộng thị trường ra nước ngoài, tham gia mạnh mẽ vào phân công lao động quốc tế và mậu dịch quốc tế, khai thác triệt để lợi thế so sánh của nền kinh tế trong nước, đồng thời cũng bảo vệ thị trường nội địa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước đứng vững và vươn lên trong hoạt động kinh doanh quốc tế, đáp ứng yêu cầu tăng cường lợi ích quốc gia. Việt Nam cũng đã thực hiện những chính sách hướng đến xuất khẩu như miễn giảm thuế, tạo điều kiện về tín dụng cho các doanh nghiệp và hộ gia đình sản xuất hàng xuất khẩu, quảng bá thương mại thông qua kênh ngoại giao. . . Chính phủ cũng sử dụng hàng rào thuế quan để bảo hộ mậu dịch đối với các ngành công nghiệp non trẻ như công nghiệp sản xuất thép, công nghiệp sản xuất ô tô. . . bằng cách đánh thuế cao các sản phẩm hoàn chế như xe ô tô nguyên chiếc, các mặt hàng xa xỉ, nhưng lại đánh thuế thấp đối với các hàng hóa trung gian. Tuy nhiên, bảo hộ sẽ có mặt trái của nó gây thiệt hại cho Nhà nước và người tiêu dùng, hoặc nếu chính sách bảo hộ không hợp lí sẽ dẫn đến tâm lí “ỷ lại” của các doanh nghiệp sản xuất trong nước mà không tự mình tăng cường năng lực cạnh tranh như ngành ô tô hay điện tử là những ví dụ điển hình cho trường hợp này. Sau nhiều năm bảo hộ sẽ làm cho các ngành này không những không phát triển mà còn có nguy cơ thụt lùi. Mặt khác, nếu bảo hộ không hợp lí còn vấp phải sự trả đũa của các quốc gia khác, ví dụ như các vụ kiện chống bán phá giá mà một trong những nguyên nhân dẫn đến các vụ kiện này là do chính sách bảo hộ không hợp lí. Do đó, khi hội nhập thì các chính sách bảo hộ vi phạm các nguyên tắc và cam kết quốc tế cần phải xóa bỏ. Tóm lại, trong điều kiện của nước ta hiện nay, những tư tưởng kinh tế của chủ nghĩa trọng thương vẫn còn có ý nghĩa. Phát triển thương nghiệp, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới đối với hàng sản xuất trong nước là điều kiện tiên quyết để từng bước tích lũy vốn tạo tiền đề vững chắc để thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển ngành thương nghiệp, đặc biệt là ngoại thương, cần phải hoạt động trên cơ sở củng cố vẵng chắc những điều kiện hiện có của đất nước, chú trọng phát triển các ngành có khả năng sản xuất cao và có nhiều lợi thế tuyệt đối nhằm thu hút được nhiều vốn nhất, nhưng vẫn phải đảm bảo công bằng, bình đẳng trong cạnh tranh, theo thông lệ quốc tế. 3. Kết luận Từ một nước phong kiến phát triển trung bình, Tây Ban Nha đã vươn lên vị trí cường quốc hàng đầu châu Âu trong thế kỉ XVI nhờ áp dụng chính sách độc quyền thương mại ở các thuộc địa. Của cải, vàng bạc ở châu Mỹ “ùn ùn” đổ về Tây Ban Nha sau những phát kiến địa lí. Sự phát triển kinh tế của Tây Ban Nha trong các thế kỉ XVI – XVIII là một minh chứng thực tế điển hình cho lí thuyết trọng thương – “trọng tiền” của nước này. Sự áp dụng cứng nhắc lí thuyết đó đã gây ra những cản trở cho sự phát triển kinh tế của Tây Ban Nha sau một thời kì huy hoàng ngắn ngủi (nửa đầu thế kỉ XVI). Tiến trình cải cách thương mại được triều đại Bourbons tiến hành tuy có hiệu quả nhất định, nhưng nó được đưa ra quá muộn và dè dặt nên không đủ sức cứu vãn nền kinh tế Tây Ban Nha đang trên đà suy thoái. Chủ nghĩa trọng thương Tây Ban Nha (thế kỉ XVII – XVIII) đã để lại cho lịch sử những bài học sâu sắc và quý giá. 124 Chủ nghĩa trọng thương Tây Ban Nha (thế kỉ XVII - XVIII) và những bài học từ lịch sử TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Agustín Cue Cánovas, 1963. Historia social y economica de Mexico (1521 – 1854). Edicion revolucionaria, Institute Cubano del libro, Impreso en Cuba [2] E.J.Hamilton, 1932. Spanish Mercantilism before 1700, in Facts and Factors in Economic History. Cambridge, Mass [3] John R. Fisher, 1997. The Economic Aspects of Spanish Imperialism in America, 1492 – 1810. Liverpool University Press [4] Robert S. Smith, 1971. Spanish Mercantilism: A Hardy Perennial. Southern Economic Journal, Vol.38, No.1 (6) [5] Robert Sidney Smith, 1940. Spanish Antimercantilism of the Seventeenth Century: Alberto Struzzi and Diego Jose Dormer. Journal of Political Economy, Vol.48, No. 3 (6) [6] Norman Davies, 2012. Người dịch: Lê Thành, Lịch sử châu Âu. Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội [7] Michael C. Meyer, William L. Sherman, 1987. The course of Mexican history. Oxford University Press, tr.181 ABSTRACT Spanish Mercantilism (17thcentury – 18thcentury) and lessons from the history Pham Thi Thanh Huyen Faculty of History, Hanoi National University of Education Mercantilism - the first economic theory of the bourgeoisie - was widely applied in Europe from the sixteenth century to the eighteenth century. This ideology promoted the government’s coordination of the national economy with the purpose of increasing that state’s power by weakening the power of other states. It argued theoretically for the process of the accumulation of primitive capital. But in every country, mercantilism was applied differently, leading to different economic policies. The difference in Spanish mercantilism was one of the reasons for the rapid disruption of the Spanish economy during the imperial period. Keywords:Mercantilism, Spanish, imperial period. 125
File đính kèm:
- chu_nghia_trong_thuong_tay_ban_nha_the_ki_xvii_xviii_va_nhun.pdf