Chính sách phát triển ngôn ngữ của dân tộc thiểu số tại chỗ hiện nay
Chính sách đối với ngôn ngữ các dân tộc thiểu số là một trong những chính sách lớn và quan trọng của Đảng và Nhà nước ta, trong điều kiện một nước đa dân tộc như
nước ta. Trong những năm qua, chính sách này đã đáp ứng được các vấn đề về dân tộc và
ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam, góp phần thiết thực vào thực hiện chính sách đại đoàn kết
dân tộc. Tuy nhiên tại một số địa phương khi triển khai chính sách ngôn ngữ đối với dân tộc
thiểu số dừng lại ở những tư tưởng, những luận điểm chung nhất, thiếu hẳn các kế hoạch, các
chương trình mục tiêu và hệ thống các biện pháp cụ thể, hình thức tổ chức thực hiện thích
hợp với từng khu vực, từng dân tộc, thiếu hẳn một đội ngũ cán bộ được chuẩn bị về kiến thức
và phương pháp Khắc phục tình trạng đó sẽ khiến cho bức tranh chung về thực trạng giáo
dục, sử dụng tiếng nói, chữ viết dân tộc trong các dân tộc thiểu số tại chỗ Việt Nam hiện nay
sáng sủa hơn.
chương trình văn hoá - xã hội và các chương trình bằng tiếng dân tộc trong khu vực trung du và miền núi Bắc Bộ giai đoạn 2006-2010” (Văn bản số 1835/TTg-VX, ngày 10/11/2006 của Thủ tướng Chính phủ) của Đài Tiếng nói Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ đã đồng ý cho triển khai thực hiện. Về truyền hình, Chính phủ đã ra Nghị định số 96/2003/NĐ-CP ngày 20/8/2003, Quy định cơ cấu bộ máy tổ chức của Đài Truyền hình Việt Nam có Ban Truyền hình tiếng dân tộc. Tiếp theo có Quyết định số 622/QĐ-THVN ngày 8/6/2004 của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam quy định chức năng, nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Truyền hình tiếng dân tộc (Chương trình VTV5). Chương trình này phát 12 giờ/ngày so với năm 2005 và tăng gấp 3 lần so với giai đoạn phát sóng thử nghiệm, với 10 ngôn ngữ: Mông, Thái, Êđê, Giarai, Bana, Xơđăng, Cơho, Khmer, Chăm, Xtiêng. Theo lộ trình phát triển của kênh VTV5, thời lượng tăng 20 giờ/ngày với 19 thứ tiếng (nay đã nhiều hơn, 2017). VTV5 đã phản ánh nhiều mặt trong cuộc sống kinh tế, văn hoá - xã hội, giáo dục, y tế, khoa học đời sống đến đồng bào các DTTS. Truyền hình bằng tiếng dân tộc VTV5 đã mang đến nhiều thông tin quan trọng, góp phần nâng cao dân trí ở vùng DTTS tại chỗ. Ở các địa phương có đông đồng bào DTTS, Đài Phát thanh và Truyền hình tỉnh cũng đã dành thời lượng nhất định để phát thanh bằng tiếng DTTS tại chỗ về các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, của cấp uỷ, Hội đồng Nhân dân, Uỷ ban Nhân dân. Thông qua ngôn ngữ dân tộc tại chỗ, Đài Phát thanh và Truyền hình địa phương còn phổ biến khoa học kỹ thuật, nêu những gương mặt điển hình xuất sắc về lao động giỏi, làm giàu của một số hộ gia đình. Sách, báo, tạp chí, tranh ảnh bằng tiếng DTTS đã được một số địa phương phát huy trong in ấn, trên pa nô, áp phích trong những ngày lễ lớn, các kỳ bầu cử, đại hội Đảng, phát động các phong trào thi đua yêu nước. Một số ấn phẩm được in bằng cả tiếng dân tộc và tiếng Việt phổ thông để tuyên truyền về pháp luật, sách về môi trường, về y tế, giáo dục, trong đó Bản tin ảnh Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 38 Số 19 - Tháng 9 năm 2017 Dân tộc và Miền núi do Thông tấn xã Việt Nam phát hành in bằng chữ dân tộc Êđê, Bana, Giarai, Khmer và Chăm cùng với các báo, tạp chí cấp không thu tiền cho vùng DTTS và miền núi, vùng đặc biệt khó khăn theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đã thiết thực góp phần tuyên truyền hiệu quả ở vùng đồng bào DTTS. 3.4.Sử dụng ngôn ngữ dân tộc thiểu số trong công tác tư pháp Hiến pháp đã quy định Toà án Nhân dân đảm bảo cho công dân nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc các dân tộc được quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước toà. Các Bộ luật Tố tụng Hình sự (năm 1988 và sửa đổi, bổ sung năm 1992), Luật Tổ chức Toà án Nhân dân năm 1992, Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự năm 1999 đều quy định cụ thể các DTTS có quyền dùng tiếng nói và chữ viết của dân tộc trước Toà. Hiện nay, trong các hoạt động tư pháp, người tham gia tố tụng có quyền dùng tiếng nói, chữ viết DTTS của mình thông qua phiên dịch sang tiếng và chữ dùng trong tố tụng là tiếng Việt Quốc ngữ. Toà án cho phép cử người phiên dịch tiếng dân tộc đối với công dân là người DTTS trong quá trình tố tụng, xét xử Như vậy tiếng nói và chữ viết của các DTTS được Nhà nước tôn trọng, duy trì và giúp đỡ phát triển, đã góp phần xoá mù chữ dân tộc ở một số vùng mà đồng bào ít biết hoặc không biết tiếng phổ thông; đáp ứng yêu cầu của đồng bào về việc dùng chữ dân tộc ghi sổ sách, viết thư từ, chép tư liệu văn học dân gian và tiến hành công tác thông tin, tuyên truyền ở địa phương. Một số ngôn ngữ DTTS đã được dạy và học ở các trường phổ thông. Bên cạnh đó, tiếng nói và chữ phổ thông ngày càng được phổ cập sâu rộng trong cộng đồng các DTTS với tư cách là ngôn ngữ chung của cả nước, đã và đang góp phần thiết thực thúc đẩy sự phát triển các mặt ở các vùng DTTS. 4.Vấn đề đặt ra trong chính sách đối với các ngôn ngữ thiểu số Đi đôi với thành tựu là những vấn đề bất cập trong chính sách và thực hiện chính sách đối với các ngôn ngữ thiểu số. Theo chúng tôi, những vấn đề bất cập đó là: - Việc thực hiện Quyết định số 53/QĐ-CP đến nay đã có những đóng góp nhất định giúp các dân tộc bảo tồn và phát huy hiệu quả ngôn ngữ của mình. Tuy nhiên vẫn cần đánh giá những mặt mạnh và những tồn tại để có giải pháp phát triển bền vững tiếng nói, chữ viết các DTTS tại chỗ. - Việc thực hiện chính sách ngôn ngữ thật sự chưa có sự chỉ đạo thống nhất, do đó mỗi địa phương đều thực hiện theo yêu cầu thực tế của địa phương mình. Vì vậy có những địa phương triển khai tương đối tốt, nhưng ngược lại cũng có địa phương thực hiện chưa tốt, hoặc không triển khai thực hiện. - Sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong việc bảo tồn và phát huy ngôn ngữ dân tộc tại chỗ chưa chặt chẽ và đồng bộ, chưa thường xuyên. - Việc sử dụng tiếng và chữ dân tộc trong các công tác giáo dục, văn nghệ, thông tin, tuyên truyền còn chưa sát với tình hình kinh tế, chưa phục vụ tốt nhu cầu đồng thời vừa học tốt chữ phổ thông và chữ DTTS tại chỗ. - Việc đào tạo, bồi dưỡng giáo viên và soạn sách giáo khoa bằng chữ dân tộc còn nhiều điều bất cập. - Trong nhận thức của các ngành, các cấp và ngay trong đồng bào DTTS (nhất là lớp trẻ) có quan niệm cho rằng việc bảo tồn và phát huy tiếng nói, chữ viết các dân tộc thiểu số là không quan trọng, không cần thiết trước xu thế toàn cầu hoá về ngôn ngữ, về thông tin. Những bất cập, hạn chế này rất cần sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, chứ không phải của riêng ngành giáo dục, với những lộ trình cụ thể và những giải pháp thiết thực. Tài liệu tham khảo [1] Barker, Colin (1996), Foundation of bilingual education and bilingualism, second edition, L’levedon, Philadelphia, Adelaide; [2] Coèdes, G. (1948), “Les langues de l’Indochine”, Extrait des conférences de l’Institut de Linguistique de l’Université de Paris, T.VIII, année 1940-1948; [3] Diffloth, Gerard (2003),“Tiếng Khmer”, Phát triển giáo dục vùng dân tộc Khmer Nam Bộ, NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, tr. 439- 452; [4] Francis, John de (1977), Colonialism and language policy in Vietnam, The Hague; [5] Hoffmann Charlotte (1991), An introduction to biligualism, Longman, London Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc CHIẾN LƯỢC VÀ CHÍNH SÁCH DÂN TỘC 39Số 19 - Tháng 9 năm 2017 and New York; [6] Ladefoged Peter & Ian Madieson (1997), The sounds of the world’s languages, Blackwell; [7] Ladefoged Peter (2007), Phonetic data analysis. Introduction to fildwork and instrumental techniques, Blackwell; [8] Thompson, Laurence C. (1965), A Vietnamese grammar, University of Washington Press, Seattle; [9] Đinh Lư Giang (2004), Tình hình song ngữ Việt - Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long (trường hợp ấp Trà Sết, xã Vĩnh Hải, huyện Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng), Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; [10] Phú Văn Hẳn & Jerold Edmonson (1990), “Eastern Cham as a tone language”, Mon-Khmer Studies, 20; [11] Phú Văn Hẳn (chủ biên) (2005), Đời sống văn hóa & xã hội người Chăm thành phố Hồ Chí Minh, NXB. Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; [12] Phú Văn Hẳn (2006), Hiện trạng nghiên cứu khoa học xã hội về người Chăm Nam Bộ (1996 – 2006) và những mục tiêu nghiên cứu trước mắt, Viện Khoa học Xã hội vùng Nam Bộ; [13] Phú Văn Hẳn (2011), Một số vấn đề về dân tộc nhằm phát triển bền vững vùng Nam Bộ, Đề tài Bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam; [14] Ngô Văn Lệ, 2017, Nghiên cứu tộc người và văn hóa tộc người: Tiếp cận Nhân học phát triển, NXB. Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh; [15] Võ Công Nguyện, (Chủ nhiệm đề tài), 2011, Tộc người và quan hệ tộc người ở Nam Bộ: Lịch sử và hiện trạng đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước trong Đề án khoa học xã hội cấp Nhà nước: Qúa trình hìh thành và phát triển vùng đất Nam Bộ (đã nghiệm thu năm 2011); [16] Nguyễn Văn Tiệp (Chủ nhiệm đề tài), 2013, Chính sách dân tộc của chính quyền VNCH và tác động của nó đối với vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc Tây Nguyên (đã nghiệm thu năm 2013); [17] Đinh Lê Thư chủ biên (2005), Vấn đề giáo dục vùng đồng bào Khmer đồng bằng sông Cửu Long, NXB. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh; [18] Đoàn Thiện Thuật (1977), Ngữ âm tiếng Việt, NXB. Đại học và Trung học Chuyên nghiệp, Hà Nội; [19] Đặng Nghiêm Vạn, 1993, Quan hệ tộc người trong quốc gia dân tộc, NXB. Khoa học Xã hội; [20] Viện Nghiên cứu phát triển Thành phố Hồ Chí Minh, Quan hệ tộc người và phát triển xã hội ở Việt Nam hiện nay, NXB. Tổng Hợp thành phố Hồ Chí Minh; [21] Hoàng Thị Châu (2004), Phương ngữ học tiếng Việt, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội; [22] Thạch Ngọc Minh (1996), “The phenomenon of monosyllab lization in the Kiengiang dialect of Khmer”, Proceeding of the IV International Symposium on Languages and Linguistics, January 8-10/1996. Vol. V, pp. 1780-1798. DEVELOPMENT POLICY IN ETHNIC LANGUAGES AT PRESENT Abstract: Ethnic minority language policy is one of the major and important policies of our Party and State, in the context of a multi-ethnic country like our country, responding to ethnic and linguistic problems in Vietnam, contributing to practical implementation of the policy of national unity. However, in some localities where language policy is applied to ethnic minorities, there has been few new ideas, general arguments, lack of plans, targeted programs and systems of specific measures and good forms of implementation to each region and each ethnic group, lacking a cadre of cadres who have good knowledge and training methods. Keywords: Languages of ethnic minorities; policy on the language of ethnic minorities; education, use of spoken and written languages of ethnic minorities.
File đính kèm:
- chinh_sach_phat_trien_ngon_ngu_cua_dan_toc_thieu_so_tai_cho.pdf