Chính sách nhà ở xã hội của Việt Nam
Tóm tắt: Chính phủ Việt Nam đặt ra mục tiêu đến năm 2020 cơ bản hình thành hệ thống an sinh xã
hội. Với hệ thống đó, người dân sẽ có việc làm, thu nhập tối thiểu, sẽ tiếp cận được các dịch vụ xã
hội cơ bản ở mức tối thiểu, trong đó có nhà ở. Chính sách nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp
đã được triển khai trong thực tiễn 10 năm qua. Tuy nhiên, đến nay chính sách này còn nhiều hạn
chế về mô hình phát triển, về đối tượng tiếp cận, về việc xác định mục tiêu và hạn chế về tính bền
vững của nó.
iá trần cố định và các hộ gia đình hưởng các khoản trợ cấp nhà ở có thể chi trả một phần tiền thuê nhà [12]. Mô hình thứ ba nhằm phân bổ nhà ở cho một nhóm người thụ hưởng hạn chế, thường là cho các hộ gia đình dễ bị tổn thương phụ thuộc rất nhiều vào trợ cấp của nhà nước (ví dụ như người thất nghiệp, người tàn tật, người cao tuổi, cha mẹ đơn thân). Tại Liên minh Châu Âu, “nhà ở xã hội cho nhóm người dễ bị tổn thương nhất thường do chính quyền địa phương phân bổ dựa trên nhu cầu” [5, tr.15], do vậy, khoản tiền thuê dựa trên chi phí hoặc được xác định trên cơ sở thu nhập. Còn ở Việt Nam, đối tượng tiếp cận nhà ở xã hội gồm các đối tượng được quy định tại điều 51 Luật Nhà ở (người có công với cách mạng; hộ gia đình nghèo, cận nghèo ở nông thôn; hộ gia đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai; người thu nhập thấp ở đô thị; Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 100 người lao động đang làm việc trong và ngoài khu công nghiệp; lực lượng vũ trang; cán bộ công nhân viên chức; học sinh, sinh viên; và hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi đất) [4]. Ngoài ra, đối tượng tiếp cận nhà ở xã hội còn phải thỏa mãn thêm ba điều kiện nữa, đó là khó khăn về nhà ở, điều kiện cư trú và điều kiện về thu nhập. Với tiêu chí chấm điểm để xét thứ tự ưu tiên mua/thuê mua nhà ở xã hội, dường như sự ưu tiên cũng dành cho đối tượng đang làm việc trong các cơ quan nhà nước, làm việc tại khu công nghiệp, người có công với mức điểm tối đa là 30 điểm - 40 điểm, trong khi đó đối tượng thu nhập thấp, cận nghèo chỉ được chấm tối đa là 20 điểm. Dường như chính sách nhà ở xã hội là sự nối tiếp chính sách nhà ở trước đây, tức là dành sự ưu tiên cho cán bộ công nhân viên chức, người có công với cách mạng, và còn một số nhóm xã hội mới nổi khác trong xã hội dường như nhận được ít sự quan tâm hơn [10]. Với cách tiếp cận đối tượng hiện nay, những đối tượng không nằm trong diện ưu tiên sẽ khó có cơ hội cải thiện tình trạng nhà ở của mình. Chính sách nhà ở phù hợp với sự điều tiết của thị trường là chính sách khuyến khích thị trường cung cấp đúng loại hình nhà ở phù hợp với điều kiện tài chính sao cho tất cả người dân đều có thể tiếp cận nhà ở phù hợp. Có như vậy thì chính sách mới có thể đảm bảo công bằng xã hội đối với mọi tầng lớp dân cư. 3.3. Hạn chế về việc xác định mục tiêu của chính sách Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn 2030 đã nêu rõ: đến năm 2020, phấn đấu thực hiện đầu tư xây dựng tối thiểu khoảng 12,5 triệu mét vuông nhà ở xã hội tại khu vực đô thị, đáp ứng cho khoảng 80% số sinh viên, học sinh các trường đại học, cao đẳng, trung câp chuyên nghiệp, dạy nghề và khoảng 70% công nhân lao động tại các khu công nghiệp có nhu cầu được giải quyết chỗ ở; hỗ trợ cho khoảng 500 nghìn hộ gia đình tại khu vực nông thôn cải thiện nhà ở. Tuy nhiên, cho đến nay theo báo cáo của Bộ Xây dựng ngày 7/12/2016, hiện mới có 186 dự án nhà ở xã hội hoàn thành và bàn giao 75.700 căn hộ tương đương 3,78 triệu mét vuông nhà. Việc phát triển nhà ở xã hội mới chỉ đạt 30% so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển nhà ở quốc gia. 3.4. Hạn chế về tính bền vững của chính sách Với tốc độ đô thị hóa nhanh như hiện nay, dân số đô thị sẽ ngày càng tăng cao và quy mô hộ gia đình ngày càng có xu hướng giảm số người trên một hộ dân. Sự thiếu hụt về nhà ở tại đô thị sẽ trở thành vấn đề cấp thiết, khi hầu hết người dân không đủ khả năng chi trả theo cơ chế thị trường. Hiện nay, mục tiêu chính sách mới hoàn thành được 30% (mặc dù nhà nước cũng đã ban hành các cơ chế khuyến khích đầu tư xây dựng nhà ở xã hội). Tuy nhiên, với nguồn quỹ đất ngày càng hạn hẹp, trong khi rất nhiều dự án xây dựng nhà ở thương mại phải dành 20% quỹ đất xây dựng nhà ở xã hội đã chuyển đổi sai mục đích sử dụng đất hoặc chủ đầu tư chưa nộp tiền vào ngân sách. Do việc thiếu sự phối hợp và buông lỏng quản lý giữa các cơ quan chức năng dẫn đến việc thiếu hụt nguồn đất sạch cũng như ngân sách nhà nước để phát triển và tăng nguồn cung nhà ở xã hội trong thời gian tới. Hoàng Vũ Linh Chi 101 Mặt khác, sau khi gói tín dụng hỗ trợ 30.000 tỷ kết thúc, Nhà nước đã có hàng loạt các văn bản hướng dẫn cho gói vay mới dành cho nhà ở xã hội ở Ngân hàng Chính sách xã hội (CSXH). Riêng trong năm 2018, chương trình cho vay ưu đãi nhà ở xã hội được Nhà nước bố trí 500 tỷ đồng và Ngân hàng CSXH thu xếp 500 tỷ đồng. Số tiền này sẽ được phân bổ trên cả nước, riêng Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh được phân bổ 50 tỷ đồng. Với cách tính chia trung bình thì mức vay mua nhà ở xã hội chỉ có khoảng 150 người tiếp cận được gói vay ưu đãi. Mặt khác, theo quy định, muốn đủ điều kiện vay vốn, khách hàng phải gửi tiết kiệm hàng tháng tối thiểu bằng mức trả nợ hàng tháng và có đủ vốn tự có tối thiểu 20% giá trị hợp đồng mua/thuê nhà ở xã hội [13]. Như vậy, chính sách tín dụng như hiện nay, người dân khó có thể tiếp cận được nhà ở xã hội cho dù giả định rằng nguồn cung nhà ở xã hội đáp ứng được nhu cầu nhà ở của người dân. 4. Khuyến nghị Hiện nay, nhu cầu về nhà ở của những đối tượng chưa đủ điều kiện để mua, thuê mua và thuê nhà theo giá thị trường hoặc chưa có đủ điều kiện để tự xây nhà là rất lớn, trong khi nguồn cung lại rất hạn hẹp. Để có thể phát triển nhà ở, đảm bảo công bằng cho tất cả tầng lớp nhân dân, cần thực hiện một số giải pháp sau. Thứ nhất, cần xác định lại khái niệm “nhà ở xã hội”. Nhà ở xã hội là một loại hình nhà ở thuộc sở hữu của cơ quan nhà nước (có thể trung ương hoặc địa phương) hoặc các loại hình nhà được sở hữu và quản lý bởi nhà nước, các tổ chức phi lợi nhuận được xây dựng với mục đích cung cấp nhà ở giá rẻ cho một số nhóm đối tượng được ưu tiên trong xã hội và được cho thuê hoặc cho ở với giá rẻ so với giá thị trường. Với cách thực hiện như hiện nay, có sự trùng chéo và gây hiểu nhầm giữa nhà cho người thu nhập thấp tại đô thị và nhà ở xã hội. Nhà ở xã hội nên là loại nhà ở dành cho những nhóm đối tượng yếu thế, phụ thuộc vào trợ cấp của nhà nước. Còn nhà ở dành cho người thu nhập thấp là nhà ở dành cho nhóm đối tượng gặp khó khăn về nhà ở, không có khả năng tiếp cận nhà ở với giá thị trường. Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay, với những khó khăn về quỹ đất, thiếu hạ tầng kết nối cũng như chưa đủ tiềm lực để có chính sách tín dụng và tài chính phù hợp, Chính phủ nên tập trung phát triển nhà ở giá rẻ, khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân tham gia phát triển nhà ở xã hội. Thứ hai, cần xây dựng nhà ở cho thuê. Nguồn cung chính thức về nhà ở cho thuê chỉ đáp ứng được 10% nhu cầu về loại nhà ở này, 90% nguồn cung về nhà ở cho thuê trên cả nước là ở khu vực phi chính thức [9], [8]. Một số lượng lớn nhu cầu về nhà ở cho thuê đến từ công nhân khu công nghiệp (khoảng 40% công nhân trong độ tuổi từ 15 đến 29, trong số đó khoảng 78% thuê nhà ở). Với giá nhà ở xã hội như hiện nay (trung bình 15 triệu đồng/m2) và với mức thu nhập trung bình của các nhóm lao động nhập cư là khoảng hơn 5 triệu đồng/tháng, việc mua nhà ở nằm ngoài khả năng chi trả của hộ gia đình và sẽ trở thành gánh nặng tài chính cho các hộ gia đình. Mặt khác, đối với những công nhân nhập cư, những người không lao động lâu dài ở thành phố (chủ yếu làm việc từ 10 năm trở xuống) cùng với mức chi phí sinh hoạt đắt đỏ, sau một thời gian hầu hết sẽ muốn quay trở về quê hương sinh sống. Xây dựng nhà ở cho thuê là giải pháp hợp lý cho nhóm đối tượng Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 102 này. Hơn thế nữa, về lâu dài, nhà nước cũng không thể có nguồn vốn tài chính hỗ trợ hàng năm cho việc xây dựng nhà ở để bán. Thứ ba, cần khuyến khích thành lập các doanh nghiệp xã hội tham gia trong lĩnh vực xây dựng nhà ở xã hội. Chính phủ cần xây dựng các chính sách khởi nghiệp cho doanh nghiệp xã hội phát triển nhà ở xã hội (như ưu đãi, hỗ trợ, khuyến khích đầu tư, thuế, quỹ đất, hỗ trợ tài chính, nhân lực giúp cho doanh nghiệp xã hội phát triển). Nguồn nhân lực của doanh nghiệp xã hội có thể là chính những người dân mong muốn được sử dụng nhà ở xã hội. 5. Kết luận Chính sách nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp là một phần quan trọng trong chính sách an sinh xã hội. Ở Việt Nam hiện nay, chính sách này được Đảng và Nhà nước rất quan tâm, nhiều nhà ở xã hội đã được đưa vào sử dụng. Tuy nhiên, chính sách này còn hạn chế. Vì vậy, Đảng và Nhà nước cần quan tâm hơn nữa, đổi mới chính sách nhà ở xã hội cho người có thu nhập thấp. Tài liệu tham khảo [1] Chính phủ (2017), Chỉ thị 03/CT-TTg ngày 25/1/2017 về đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội. [2] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, ngày 28 tháng 01 năm 2018, Hà Nội. [3] Nguyễn Cảnh Khanh (1989), Chính sách xã hội: Lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội. [4] Quốc hội (2014), Luật nhà ở, số 65/2014/QH13, ngày 25 tháng 11 năm 2014, Hà Nội. [5] Darinka Czischke and Alice Pittini (2007), “CECODHAS - Housing - Europe - 2007. Pdf.” : 100. [6] Hutchinson (2009), “Housing Policy”, Urban studies. [7] UN-Habitat (2015), “Hồ sơ nhà ở Việt Nam”. [8] Waibel, Michael, Donald Eckert, Michael Bose, and Volker Martin (2007), “Nhà ở cho người thu nhập thấp tại TP HCM giữa tái hoà nhập và phân tán”, ASIEN (103): 59-78. [9] WorldBank (2015), “Nhà ở giá hợp lý ở Việt Nam: Con đường phía trước”. [10] Yip, N.M and Tran, H.A. (2008), “Urban Housing Reform and State Capacity in Vietnam”, The Pacific review 21 (2): 189-210. [11] Un-Habitat (2011), “Affordable Land and Housing in Asia”, Design: 1-102. www.unhabitat.org. [12] research-briefings. [13] Ngân hàng Chính sách xã hội (2018), Đối tượng, điều kiện vay vốn mua nhà ở xã hội, tuong-dieu-kien-vay-von-mua-nha-o-xa- hoi/7771.vgp (September 12, 2018).
File đính kèm:
- chinh_sach_nha_o_xa_hoi_cua_viet_nam.pdf