Chăm sóc và nuôi dạy trẻ em của người Việt Nam sinh sống tại Canada
Tóm tắt: Việc nuôi dạy trẻ em của người Việt Nam sinh sống ở Canada hiện nay đang tồn tại
nhiều bất cập, bao gồm: mâu thuẫn giữa quá trình Canada hóa trẻ em Việt Nam và trách nhiệm của
trẻ đối với gia đình, họ hàng Việt Nam; sự khác biệt về mức độ tiếp thụ văn hóa Canada giữa
những người mẹ Việt Nam nhập cư và con cái của họ; rào cản từ những nguyên tắc được luật hóa
trong việc chăm sóc và nuôi dạy con ở Canada. Trước những thách thức này, các bà mẹ Việt Nam
cần chủ động thích nghi với xã hội Canada để mang đến một tương lai tốt đẹp hơn cho mỗi trẻ em.
soát công dân. Ngoài ra, hệ thống tri thức có thẩm quyền còn phản ánh quan hệ giữa nhà nước và công dân thông qua việc làm mẹ. Ở Canada, mỗi cá nhân là tài sản của nhà nước và nhà nước chịu trách nhiệm trực tiếp với mỗi cá nhân. Do đó, công việc chăm sóc và nuôi dạy trẻ em được thể chế hoá và luật hóa nhằm đảm bảo cho trẻ em được chăm sóc, bảo vệ và phát triển tốt nhất Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 102 theo các nguyên tắc mà nhà nước đề ra. Việc chăm sóc, nuôi dạy trẻ em được coi là một công việc mà cha mẹ phải chịu trách nhiệm trước nhà nước và được nhà nước giao phó thông qua những chính sách phúc lợi bảo trợ trẻ em. Nếu người mẹ không làm tốt vai trò làm mẹ theo đúng các nguyên tắc mà nhà nước đề ra, thì họ có thể bị coi là những người mẹ tồi và sẽ có nguy cơ bị tước quyền nuôi con. Khi đó, trẻ em sẽ được trao cho người khác (những người mà chính phủ cho rằng sẽ làm công việc chăm sóc và nuôi dạy con họ tốt hơn). Trong tư duy của những bà mẹ Việt Nam, con cái là tài sản của gia đình, là một thành tố quan trọng để tạo nên sự bền vững và yên ấm của gia đình. Việc nuôi dưỡng và chăm sóc một đứa trẻ thể hiện mối quan hệ trực tiếp giữa đứa trẻ và cha mẹ. Do đó, để đánh giá về việc làm mẹ, thì trước hết phải nhìn từ góc độ của đứa trẻ, và sau đó là góc độ của những người thân trong gia đình và họ hàng, chứ không phải chỉ đơn thuần từ góc độ của nhà nước. Nhiều học giả đã phê phán gay gắt quan điểm coi hệ thống tri thức khoa học như là một “quyền năng của chúa”. Theo sự phê phán đó, hệ thống này có thể hạn chế khả năng tiếp cận của một số nhóm xã hội nhất định hay tạo ra một cấu trúc quyền lực trong xã hội đi cùng với hệ thống kiến thức chuyên gia. Theo Haraway, hệ thống tri thức khoa học này mang tính thiên lệch, không phản ánh đúng thực tế; thực tế phức tạp hơn rất nhiều so với hệ thống tri thức khoa học đó; mỗi cơ thể con người là một thế giới riêng và nó đòi hỏi cần phải được thấu hiểu một cách đầy đủ, chứ không chỉ đơn thuần áp dụng một mô thức, khuôn mẫu chung cho tất cả mọi người hay tất cả các nhóm người. Ở Canada, những cuốn sách hướng dẫn chăm sóc và nuôi dạy con được coi là “kinh thánh” cho các bà mẹ. Ngôn ngữ được sử dụng trong các cuốn sách hướng dẫn mang tính chuyên ngành khoa học. Để có thể tiếp thu và lĩnh hội đầy đủ những thông tin, kiến thức trong đó, người sử dụng phải có một mức độ hiểu biết nhất định. Trong khi đó, ngôn ngữ luôn là một trở ngại lớn cho các bà mẹ nhập cư Việt Nam. Vấn đề thường thức trong một xã hội không chỉ dừng ở ngôn ngữ, mà hơn thế, nó là sự khác biệt về văn hóa thể hiện ở cách hiểu ngôn ngữ, tư tưởng, tư duy lý tính [3, tr.231]. Khi tri thức khoa học trong các cuốn sách hướng dẫn trở thành nguồn tri thức đúng duy nhất buộc mọi người phải tuân theo, thì tất cả các phương thức thực hành và tri thức khác sẽ bị phủ nhận. Như vậy, đối với các bà mẹ nhập cư, hiểu và thực hành theo những hướng dẫn đó là một thách thức. 4. Trách nhiệm của trẻ em người Việt Nam ở Canada đối với gia đình và họ hàng Cấu trúc thân tộc phụ quyền của văn hoá Việt Nam có ảnh hưởng sâu sắc tới sự hình thành các gia đình cũng như mối liên hệ của các gia đình trong hệ thống thân tộc của người Việt Nam ở Canada. Trong bối cảnh toàn cầu hóa với các dòng nhập cư, mối quan hệ thân tộc vượt ra khỏi khuôn khổ của một quốc gia. Thậm chí, mối liên hệ thân tộc không chỉ tiếp nối trong thế hệ của những người đang sống, mà còn có sự liên kết với người đã mất (ngay cả khi người đã mất, trước khi mất, sống ở nước ngoài). Nền tảng duy trì mối quan hệ thân tộc xuyên quốc gia là những mối quan hệ họ hàng ở quê hương, và quan hệ đó được coi Vũ Tuyết Lan 103 là không bao giờ bị cắt đứt. Vì lý do thờ cúng tổ tiên và những người đã khuất trong gia đình, nam giới khi đã mất vẫn là thành viên vĩnh viễn trong hệ thống thân tộc phụ hệ [6, tr.749]. Một yếu tố quan trọng của hệ thống thân tộc trong văn hoá Việt Nam là sự duy trì giống nòi, trong đó việc làm mẹ có vai trò to lớn. Trong việc chăm sóc và nuôi dạy con, người mẹ Việt Nam có trách nhiệm duy trì quan hệ thân tộc. Các thành viên trong gia đình, họ hàng phải chịu những ràng buộc về trách nhiệm nhất định đối với toàn bộ hệ thống thân tộc, cũng như với các thành viên trong hệ thống đó. Việc chăm sóc và nuôi dạy con của những người mẹ Việt Nam nhập cư được giám sát bởi họ hàng, gia đình ở Việt Nam (sự tiếp nối về dòng giống của một dòng họ, gia đình); đồng thời, công việc đó lại bị giám sát bởi chính phủ Canada. Mỗi thiết chế xã hội đặt ra các yêu cầu khác nhau đối với việc chăm sóc và nuôi dạy con. Trong nhiều trường hợp, sự căng thẳng xuất hiện trong việc duy trì các mối quan hệ họ hàng và gia đình do xuất hiện sự khác biệt trong cách suy nghĩ giữa mẹ và con. Người mẹ chịu trách nhiệm duy trì mối quan hệ thân tộc ngay cả khi họ sống ở nước ngoài. Trong khi đó, trẻ lại muốn chống lại sự duy trì đó; muốn tiếp thu lối sống, hệ giá trị, văn hóa và tư tưởng Canada để có thể hòa nhập hoàn toàn vào xã hội Canada. Gia đình là một thiết chế vô cùng quan trọng đối với người nhập cư, đặc biệt là đối với người nhập cư Việt Nam. Trong bối cảnh của cuộc sống nhập cư, gia đình, họ hàng là “sợi dây” quan trọng để người nhập cư không cảm thấy sự mất kết nối. Tuy nhiên, sợi dây này chỉ có thể chạm tới những người nhập cư chứ không đủ lực để ràng buộc các thế hệ con cháu của họ. Những trẻ em nhập cư sống ở Canada trước hết là công dân Canada. Đối với những trẻ em đó, vai trò một thành viên của dòng họ ở Việt Nam trở nên khá mờ nhạt. Mối ràng buộc của dòng họ ở Việt Nam chỉ có thể tác động tới những trẻ em nhập cư thông qua những người mẹ. Điều này sẽ làm người mẹ chịu thêm áp lực và căng thẳng trước sự giám sát từ xa. Người mẹ được đặt vào vị trí cầu nối giữa quê hương và nước nhập cư trong việc nuôi dạy con cái. Sự căng thẳng, thậm chí là đối nghịch giữa mẹ và con trong việc chăm sóc và nuôi dạy con xuất hiện do có sự khác biệt về nhận thức. Những trải nghiệm nhập cư cùng với mối liên hệ bám rễ với thân tộc ở quê nhà đã khiến những người mẹ Việt Nam cảm thấy rằng mình không thuộc về Canada. Thậm chí, trong nhiều trường hợp, họ còn cảm thấy bị phân biệt đối xử, bị kỳ thị hay bị gạt sang bên lề. Trong khi đó, những đứa trẻ Việt Nam nhập cư (có hoặc không được sinh ra ở Canada) do được nuôi dưỡng, dạy dỗ ở Canada nên nhận thức rằng bản thân mình là thành viên thuộc về Canada. Các bà mẹ Việt Nam thường gặp những vấn đề về tâm lý trong việc nuôi dạy con ở Canada. Thực tế có mâu thuẫn là, các bà mẹ Việt Nam vừa muốn những đứa con của mình hòa nhập vào Canada, vừa muốn duy trì bản sắc Việt Nam cùng với trách nhiệm duy trì dòng họ và kết nối với gia đình ở quê hương. Đó là một điều rất có ý nghĩa với nhận thức về bản thân của những người di cư. 5. Kết luận Các nhà nhân học từ trước đến nay luôn coi việc nuôi dạy và chăm sóc trẻ em là một quá trình trao truyền văn hóa vô cùng Khoa học xã hội Việt Nam, số 4 - 2019 104 quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của mỗi cá nhân, đối với quá trình hình thành và duy trì quan hệ gia đình, thân tộc, cũng như quá trình tái sản xuất xã hội [1]. Quá trình chăm sóc và nuôi dạy con của các bà mẹ Việt Nam nhập cư ở Canada không chỉ đơn thuần là quá trình xã hội hóa cá nhân trẻ em, mà nó còn phản ánh chính đời sống nhập cư trong bối cảnh xuyên quốc gia. Những thực hành làm mẹ đó thể hiện trách nhiệm xã hội của người mẹ đối với trẻ em, với họ hàng ở Việt Nam và với đất nước Canada (nơi họ nhập cư). Những người mẹ nhập cư Việt Nam luôn mong đợi một tương lai tốt đẹp hơn cho thế hệ con cháu. Họ gặp nhiều khó khăn, thách thức từ chính bối cảnh xã hội nhập cư mang lại. Họ phải ứng phó và thích nghi với những thách thức đó trong quá trình chăm sóc và nuôi dạy con. Tài liệu tham khảo [1] Barlow, K. & Chaplin, L. (2010), “The Practice of Mothering: An Introduction”, Ethos, Vol. 38, No.4. [2] Chodorow, N. (1987), The Reproduction of Mothering: Psychoanalysis of Sociology of Gender, University of California Press. [3] Haraway, J.D. (1991), Simians, Cyborgs and Women: The Reinvention of Nature, Routledge Publication, New York. [4] Hays, S. (1996), The Cultural Contradictions of Motherhood, Yale University Press, New Haven and London. [5] Jordan, B. (1997), “Authoritative Knowledge and Its Constraints”, Fieldwork in Developing Countries, Lynne Rienner Publishers, Boulder, Colorado. [6] Luong, V.H. (1989), “Vietnamese kinship: Structural Principles and Socialist Transformation in Northern Vietnam”, Journal of Asian Studies, Vol. 48, No. 4. [7] O’Reilly, A., eds. (2010), Twenty-first Century Motherhood: Experience, Identity, Policy, Agency, Columbia University Press, New York. [8] Reckwitz, A. (2002), “Toward a Theory of Social Practices: a Development in Culturalist Theorizing”, European Journal of Social Theory, Vol. 5, No. 2. [9] Ruddick, S. (1989), Maternal Thinking: Towards a Politics of Peace, Beacon Press, Boston, Massachusetts. [10] Scheper-Huges, N. & Sagent, C., eds. (1999), Small Wars, Cultural Politics of Childhood, University of California Press. [11] Whitley, R. (2009), “Mastery of Mothering Skills and Satisfaction with Associated Health Services: An Ethnocultural Comparison”, Cult Med Psychiatry, Vol. 33. [12] Winograd, T. & Flores, F. (1986), Understanding Computers and Cognition: A New Foundation for Design, Ablex Publishing Corporation. [13] Wolf, J.B. (2011), “Chapter 4: From the Womb to the Breast: Total Motherhood and Risk-Free Children”, Is Breast the Best? Taking on the Breasfeeding Experts and the New High Stakes of Motherhood, New York University Press, New York.
File đính kèm:
- cham_soc_va_nuoi_day_tre_em_cua_nguoi_viet_nam_sinh_song_tai.pdf