Cảm hứng nhàn tản trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Tóm tắt
Nguyễn Du (1765-1820) là tập đại thành của văn học trung đại Việt Nam. Ngoài tác phẩm bất hủ “Đoạn
trường tân thanh” và một số tác phẩm Nôm khác, ông có để lại 3 tập thơ chữ Hán với tổng số 249 bài. Qua
đây, thi hào đã có dịp thể hiện, gửi gắm và ký thác nhiều tâm sự về thế đạo nhân tâm cũng như thân phận
của một kẻ sĩ tài hoa nhưng cuộc đời nhiều cay đắng, tủi nhục. Trên hành trình ấy, những lúc thân mhỏi,
tâm mệt, Nguyễn Du đã tìm đến với thiên nhiên, cuộc sống thôn dã như một phương thức để giải tỏa
những ưu tư và giữ gìn khí tiết thanh cao. Điều này tạo nên trong thơ chữ Hán của ông cảm hứng về cái
nhàn hay cảm hứng nhàn tản. Đây là nội dung chính được chúng tôi triển khai trong bài viết của mình.
Nhật Lệ hay Cẩm Sơn mình vẫn là khách/ Đám mây trắng, chòm mây đỏ, bao xiết vẻ thu/ Thân này đã là vật trong lồng cũi/ Còn tìm đâu được cuộc đời phóng khoáng tự do nữa - Đầu mùa thu ngẫu hứng).24 Làm quan mà với một tâm trạng “lạc loài” như thế, hẳn nhiên Nguyễn Du không thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của một viên quan từ cái nhìn chính thống. Lẽ đó mà ông bị quan trên quở mắng cũng là điều dễ hiểu: “Khi làm quan, ông thường bị quan trên quở trách, nên lấy làm uất ức bực chí”.25 Đã có lúc, có chỗ thi nhân tìm đến Đạo, tìm đến Phật nhưng tất cả cứ nửa vời bởi ông chưa bao giờ nguôi quên tục lụy. Vả có tìm đến những cái thú tao nhã của nho sĩ như uống rượu, ngâm thơ, ngắm cảnh, thưởng ngoạn thiên nhiên nhưng chưa bao giờ thi hào đi được đến tận cùng của những xúc cảm như thế. Hứng thú về cái nhàn để được hoà mình vào trăng trong, gió mát, được nằm khểnh giữa chốn rừng thông nghe tiếng vi vu gọi nguồn cứ chen lẫn với nỗi niềm rưng rưng của một kẻ sĩ già yếu, tóc bạc, lữ thứ, đau ốm, vô dụng và bao nhiêu những sầu bi khác ùa đến. Khảo sát hai tập thơ “Nam trung tạp ngâm” và “Bắc hành tạp lục”, chúng tôi thấy chỉ có 04 bài Nguyễn Du nhắc tới chữ nhàn nhưng cả bốn trường hợp chủ thể trữ tình đều không có được sự thảnh thơi theo đúng nghĩa. Đó là các bài Thu chí (Thu đến), Dã tọa (Đêm ngồi), Tống Ngô Nhữ Sơn công xuất trấn Nghệ An (Tiễn ông Ngô Nhữ Sơn ra làm Hiệp trấn Nghệ An) và Quế Lâm công quán (Công quán Quế Lâm). Một số bài khác, thi nhân không trực tiếp nhắc tới chữ nhàn mà gửi gắm niềm cảm hứng của mình tới cỏ cây, phong cảnh trên những nẻo đường mà Nguyễn Du có dịp đi qua: Thiên Thai sơn tại đế thành đông, Cách nhất điều giang tự bất thông. Cổ tự thu mai hoàng diệp lý, Tiên triều tăng lão bạch vân trung. Khả liên bạch phát cung khu dịch, Bất dữ thanh sơn tương thủy chung. Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo, Cảnh hưng do quải cựu thời chung. (Vọng Thiên Thai tự) (Núi Thiên Thai ở phía đông kinh thành/ Cách một dòng sông tựa hồ không có lối qua/ Mùa thu, ngôi chùa cổ lấp dưới lá 63 vàng/ Vị sư triều trước già trong mây trắng/ Thương mình đầu bạc còn phải lận đận/ Không được cùng núi xanh trọng nghĩa thủy chung/ Nhớ lại năm trước từng đến thăm đây/ Còn thấy treo quả chuông thời Cảnh Hưng - Trông chùa Thiên Thai).26 Chỗ khác, trên đường đi sứ, một đêm đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang, ngẫm về một hành trình đầy mỏi mệt của mình (làm quan từ năm 1802 đến năm 1813), giữa chốn sông nước, núi non, dường như niềm xúc cảm, tinh thần của thi nhân đã ít nhiều chạm được tới cái huyền vi của triết lý thoát tục: Viên đề thụ điểu nhược vô lộ, Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân. Tứ vọng vân sơn nhân độc lão, Đồng chu Hồ Việt các tương thân. Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ, Ná đắc gia hương nhập mộng tần? (Tam Giang khẩu đường dạ bạc) ( Vượn hót ngọn cây, tưởng không có lối đi/ Chó sủa trong rừng, biết có người/ Bốn mặt núi mây, riêng thấy mình già/ Đi cùng thuyền kẻ Hồ người Việt đều thân nhau/ Mười năm nay quên đường về làng cũ/ Làm sao cố hương thường vào được giấc mộng? - Đêm đậu thuyền ở cửa sông Tam Giang). 27 Chỉ có điều, với thi hào, dường như chưa bao giờ ông muốn trở thành một kẻ tu hành với đúng nghĩa của nó. Tình cảm ấy, tấm lòng ấy thì dù có đặt chân vào chốn thiền viện thì thi nhân, sớm hay muộn cũng “phá giới” mà thôi. Nguyễn Du chỉ tìm đến Phật như một giải pháp tạm thời trong trạng huống cụ thể nào đó để xoa dịu vết thương lòng, để “ru mình” giữa cõi đời loạn ly lúc bấy giờ chứ bản thân ông từng thú nhận, dầu có đọc kinh nghìn lượt thì cũng chả có gì rõ ràng cả, tất nhiên không phải ở nhận thực của người đọc kinh rồi: Ngã độc Kim Cương thiên biến linh, Kỳ trung áo chỉ đa bất minh. Cập đáo Phân kinh thạch đài hạ, Tài tri vô tự thị chân kinh. (Lương Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài) (Ta đọc kinh Kim Cương hàng nghìn lượt/ Những ý nghĩa gọi là sâu xa trong đó phần nhiều không rõ ràng/ Khi đến dưới đài phân kinh này/ Mới biết kinh “không chữ” mới thật là chân kinh - Đài đá “Phân kinh” của thái tử Chiêu Minh đời Lương).28 4. Kết luận Trở lên, có thể khẳng định rằng, nội dung cảm hứng trong thơ chữ Hán Nguyễn Du rất đa dạng, phong phú, ít nhiều phức tạp mà trong đó cảm hứng về cái nhàn hay cảm hứng nhàn tản là một biểu hiện đáng quan tâm. Có lẽ, điểm phân định cũng như dấu ấn riêng của thi hào ở hướng này trong dòng thơ ca nhàn tản trung đại chính nỗi niềm thân phận, những trở trăn day dứt về cuộc đời, con người nói chung trong xã hội đương thời chưa bao giờ “buông tha” ông, khiến cho mỗi lời thơ cất lên là một xúc cảm nghẹn ngào, dưng dưng. Và, nếu như với nhiều nho sĩ khác, sự trăn trở, kể cả lồ lộ “Đêm đêm thức nhẫn nẻo sơ chung” (Nguyễn Trãi) hay ẩn giấu “Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào” (Nguyễn Khuyến) đâu đó còn là chức năng phận vị của những con người ý thức cao về tài năng và tâm huyết với chính sự, với thời cuộc mà đành bó gối khoanh tay thì với đại thi hào, cảm xúc ấy, nỗi niềm ấy chả những trượt qua những gì được coi là cụ thể mà còn thể hiện biết bao tình cảm lớn, hướng về cuộc đời, con người nhân loại. Đó là chỗ Nguyễn Du ghi một cái tên trên dòng chảy thi ca trung đại nói riêng, thi ca dân tộc nói chung để chưa cần đến bản “Nam âm tuyệt cú” thì ông đã mãi mãi bất tử trong trái tim độc giả muôn 64 đời; nơi tìm đến, hướng về, sẻ chia biết bao cảnh ngộ nhân sinh trong cõi vô thường./. Ghi chú: 1 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.93. 2 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.230. 3 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.195. 4 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.222. 5 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.229. 6 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.73. 7 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.211. 8 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.323. 9 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.254. 10 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.431. 11 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.117. 12 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.127. 13 Xin xem thêm phần viết của chúng tôi trong sách: Tác giả nhà nho ẩn dật và văn học trung đại Việt Nam, chuyên luận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr.43-62. 14 Xin xem thêm bài viết của chúng tôi: “Nhận diện loại hình tác giả nhàn tản trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 11/2014, tr.11-18. 15 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.76. 16 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.95. 17 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.117. 18 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.138. 19 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.146. 20 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.150. 21 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.158. 22 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.151. 23 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.181. Về nội dung này, xin xem thêm các bài viết sau: - Thăng Long và Hà Tĩnh trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, nguồn: cuu/thang_long_va_ha_tinh_trong_tho_chu_h an_nguyen_du.html - Thành Thăng Long trước thế kỷ XIX trong thơ Nguyễn Du, nguồn: cuu/thanh_thang_long_truoc_the_ky_xix_tron g_tho_nguyen_du.html - Thăng Long với hồn thơ của chú cháu Nguyễn Du, nguồn: hang_long_voi_hon_tho_cua_chu_chau_nguy en_du.html - Xuân tha hương trong thơ chữ Hán của thi hào Nguyễn Du, tác giả: Nguyễn Phúc Vĩnh Ba, nguồn: binhluan/xuanthahuongnguyendu.htm 24 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.187. 25 Dẫn theo Trương Chính, “Lời giới thiệu”, Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.33. 26 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.201. 27 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.250. 28 Thơ chữ Hán Nguyễn Du, sđd, tr.425. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Huệ Chi (1965), “Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du”, Tạp chí Văn học, số 11, tr.48. 2. Trương Chính (1965), “Lời giới thiệu”, Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.7-43. 3. Trương Chính (1999), “Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán”, Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (1999), Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, tái bản lần 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr. 89- 111. 4. Xuân Diệu (1981), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (1999), Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, tái bản lần 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999. 6. Lê Đình Kỵ (1971), “Nguyễn Du qua thơ chữ Hán”, Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 7. Vũ Đình Liên (1971), “Nguyễn Du một tâm hồn lạc loài trong xã hội phong kiến”, Tạp chí Văn học, (2), tr.69. 8. Mai Quốc Liên (1999), “Thơ chữ Hán Nguyễn Du”, Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm (1999), Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Hữu Sơn, Vũ Thanh tuyển chọn và giới thiệu, tái bản lần 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.120-131. 9. Nguyễn Thị Nương (2007), Con người Nguyễn Du qua thơ chữ Hán (Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục), Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 65 10. Đào Xuân Quí, “Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán”, Báo Văn nghệ, (237), tr.5. 11. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Thơ chữ Hán Nguyễn Du - từ cõi hư vô nhìn lại kiếp người”, Phụ bản Thơ, Báo Văn nghệ, (26), tr.7. 12. Lê Văn Tấn (2013), “Loại hình tác giả nhà nho ẩn dật trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (10), tr.43-58. 13. Lê Văn Tấn (2014), “Nhận diện loại hình tác giả nhàn tản trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí Thông tin khoa học xã hội, số 11, tr.11. 14. Lê Văn Tấn (2015), “Hình tượng dật sĩ trong văn chương tác giả nhà nho ẩn dật”, Tạp chí Nghiên cứu văn học, (5), tr.95-103. 15. Lê Văn Tấn (2015), “Nhận diện loại hình tác giả nhà nho hành đạo trong văn học trung đại Việt Nam”, Tạp chí khoa học xã hội, Tp. Hồ Chí Minh, (chờ in). 16. Hoài Thanh (1962), “Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán”, Tạp chí Văn nghệ, số 58, tr.16. Ngày nhận bài: 11/11/2016 Biên tập xong: 15/12/2016 Duyệt đăng: 20/12/2016
File đính kèm:
- cam_hung_nhan_tan_trong_tho_chu_han_nguyen_du.pdf