Cái tôi cô đơn, lạc loài của Vũ Bằng trong tùy bút “Thương nhớ mười hai”
TÓM TẮT: “Thương nhớ mười hai” là một tùy bút xuất sắc, là tác phẩm kết tinh tài năng nghệ thuật
của Vũ Bằng. Bên cạnh những nhớ thương đầy vơi về bốn mùa Bắc Việt, tác phẩm còn thể hiện rõ nét
chân dung cái tôi cô đơn, lạc loài của tác giả. Chân dung ấy được bộc lộ qua cảm giác xa lạ, bất hòa
với không gian, môi trường, hoàn cảnh; qua cảm nhận sâu đậm về chia lìa, ly biệt và qua mặc cảm, nỗi
buồn về thân phận
ành nỗi đau, khi nhức nhối, lúc âm ỉ, khiến kẻ ly hương chẳng thể yên lòng. Chữ nhớ lặp đi lặp lại mấy chục lần không chỉ diễn tả nỗi nhớ vơi đầy, dằng dặc của tác giả mà còn cho thấy niềm khắc khoải li biệt trong tâm trạng người xa quê: “Người ta nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ những nét mặt thương yêu, nhớ những con đường đã đi về năm trước, nhớ người bạn chiếu chăn dắt tay nhau đi trên con đường vắng vẻ ngào ngạt mùi hoa xoan còn thơm mát hơn cả hoa cau hoa bưởi. Người ta nhớ heo may, giếng vàng, người ta nhớ cá mè, rau rút, người ta nhớ trăng bac, chén vàng. Nhớ quá, bất cứ cái gì của Hà Nội cũng nhớ, bất cứ cái gì của Bắc Việt cũng nhớ, nhớ từ cánh đồng lúa con gái mơn mởn nhớ đi, nhớ từ tiếng hát người mẹ ru con buổi trưa hè mà nhớ lại, nhớ hoa sấu rụng đầu đường Hàng Trống, nhớ quả bàng ở Hải Hậu rụng xuống bờ sông đào, nhớ sen Linh Đường thơm ngào ngạt cả bầu trời mà nhớ lên, nhớ nhãn Hưng Yên, vải Vụ Bản, cá anh vũ Việt Trì, na Láng, bưởi Van Phước, cam Bố Hạ, đào Sa Pa, mà nhớ xuống”[1;13]. Cánh cánh nỗi đau chia lìa, rưng rưng nỗi nhớ thương trong xa cách, Vũ Bằng đã có những dòng hoài niệm đẹp đẽ, lấp lánh về một không gian thiên nhiên xứ Bắc trong trẻo mà diễm tình. Hình ảnh cố hương, vì thế, sống động, có hình, có nét trên những trang văn Vũ Bằng. Như một quy luật tất yếu của trái tim, nhớ về cố hương, tác giả không thể không nhớ tới cố nhân. Người phụ nữ gieo nhớ và thương, để lại cả những mong ngóng và dày vò, mang đến ám ảnh về cả sum vầy và li biệt cho Vũ Bằng, không ai khác, đó chính là Quỳ, người vợ tấm mẳn, tào khang ở đầu kia đất nước. Nhắc hay gọi tên Quỳ chỉ vài lần nhưng bóng dáng một người đàn bà đẹp như trong mộng, một người bạn đời tri kỉ, chu đáo, một tình nhân quyến luyến, một người mẹ tảo tần, người vợ ân cần, chiều chuộng, một người phụ nữ gia đình biết chăm lo, quán xuyến lại đậm đặc và in bóng trên hầu hết các chương của cuốn tùy bút. Nó làm thành những đoạn, những trang hay nhất và xúc động nhất của Vũ Bằng: 63TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020 “Người đàn bà đẹp mặc áo xanh nói tới đó thì vòng tay ta khép lại, làm cho trăng non ở ngoài cửa sổ cũng phải thẹn thùng. Đôi mắt đẹp lung linh sầu. Ta thấy như cả một mảnh vườn thơm ngát hương cau nghiêng xuống mé giường xô lệch”. [1; 34]. “Tôi nhớ những buổi tối đi trên con đường tòa án ngan ngát mùi hoa sữa, nhớ những đêm trăng hai đưa dắt nhau đi trên đường Giảng Võ, những đêm mưa ngâu, thức dậy nổi một nồi cơm gạo vàng ăn với thịt con gà mái ấp” [1; 40]. “Nhớ quá chừng là nhớ, thương quá chừng là thương. Thương nhất là người vợ bé nhỏ yêu chồng, mùa nào thức nấy, không bao giờ đợi cho chồng nói phải lên sự ước mơ” [1; 46]. “Quỳ ơi, giờ này em ở đâu? Em có biết tại cái xứ có nhiều loại kèn xe hơi cực kì tối tân này, em có biết rằng có người chồng thỉnh thoảng trông ra nắng tháng tư lại nhớ đến một buổi trưa tiền kiếp, chúng ta đang dựa gốc cây thiêm thiếp, sực nghe thấy tiếng chim tu hú đậu ở đâu mà kêu to như thể ở chính bên tai vậy”[1; 85 ] Người đàn bà thuần hậu mang tên Quỳ được nhà văn miêu tả gắn với không gian thuộc về gia đình, nàng tượng trưng cho gia đình, cho tổ ấm, cho hạnh phúc trong quá khứ của Vũ Bằng. Điều đó có nghĩa là, nỗi đau của tác giả ở đây không chỉ là nỗi đau cách xa đôi lứa mà nó còn là nỗi đau gia đình ly tán nên nó trở nên khắc khoải, giày vò. Trong hoàn cảnh kẻ Bắc người Nam, nỗi nhớ thương của tác giả luôn đi liền với cảm thức chia lìa, li biệt, thậm chí nhớ thương sóng đôi với tang thương. Hình tượng cái tôi Vũ Bằng, vì vậy, thấm đẫm nỗi cô đơn, trống trải và tuyệt vọng: “Trong bóng đêm lạnh, có tiếng mưa rơi trên giàn hoa thiên lý, anh khóc vợ, khóc cho chính mình, khóc không cho ai biết Thôi thế là hết, đợi chờ gì nữa, bây giờ thì cầu xin gì nữa? Vợ chồng lấy nhau từ lúc hàn vi, đến lúc chết tưởng là được vuốt mắt cho nhau, ai ngờ đâu lại vô duyên đến thế” [1; 202]. “Thương nhớ mười hai” với những con chữ thấm nhiều nước mắt, những dòng văn như rỉ máu, đã cho ta thấu cảm với nỗi tương tư cố hương và cố nhân của tác giả, cho ta hiểu và trân trọng, nâng niu những mảng màu của tập tục, lễ nghi trong bức tranh văn hóa của Hà Nội và Bắc Việt, nó cũng đem tới cho ta một cơ hội được trở về nguồn cội, nhập hồn vào với thiên nhiên, cảnh sắc, sản vật, con người ở đó, tất thảy đều toát lên vẻ đẹp thanh tao, tinh tế, hồn hậu mà vẫn đậm hồn vía của quê hương Bắc Việt. 2.3. Tâm lí mặc cảm và nỗi buồn thân phận Ở “Thương nhớ mười hai”, cái tôi cô đơn, lạc loài còn lẩn khuất đâu đó qua tâm lí mặc cảm và nỗi buồn thân phận của người viết. Trong những năm chống Pháp, Vũ Bằng nghe không ít những quy kết, sỉ vả về mình là kẻ quay lưng với kháng chiến khi ông hồi cư về thành Hà Nội để hoạt động tình báo. Sau năm 1954, ông di cư vào Nam vẫn là để thực hiện công tác tình báo do cấp trên phân công, nhưng cuộc ra đi ấy phải núp dưới hình thức một cuộc trốn chạy. Lần thứ hai trong đời, Vũ Bằng bị người đời khinh ghét, bị đồng nghiệp trong giới văn chương, báo chí dò xét, nghi ngờ về thái độ chính trị. Ông chấp nhận tất cả những tai tiếng ấy chỉ để tạo ra một vỏ bọc chắc chắn, an toàn cho các hoạt động phục vụ cách mạng. Tuy thế, về mặt tâm lí, có thể nói, Vũ Bằng hoặc vẫn mang trong mình khuynh hướng 64 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG muốn thanh minh, muốn khẳng định phẩm giá hoặc sẽ cam chịu những lời buộc tội nhưng sẽ đau đáu cả đời nỗi mặc cảm và sự chua chát cho thân phận. Việc không hề trở lại Hà Nội, không quay lại Bắc Việt lần nào từ ngày bước chân ra đi cho đến khi đất nước độc lập, giang sơn thu về một mối (dù trên những trang văn Vũ Bằng, tình yêu với đất Bắc mãnh liệt, da diết, cuộn chảy đến nhức nhối tâm can), chính là lời giải thích về nét tâm lí thường trực ở nhà văn. Nó nghiêng nhiều hơn về phía sự mặc cảm thân phận của con người luôn phải gắn với điều tiếng, về phía nỗi đau đau thân phận con người phải sống kiếp con chim lìa đàn. Tuy nhiên, đấy là cách lí giải trên phương diện yếu tố đời tư, yếu tố bên ngoài tác phẩm. Nó quan trọng nhưng không hoàn toàn chi phối tư tưởng của nhà văn. Nhìn trên phương diện tác phẩm, “Thương nhớ mười hai” có những dấu hiệu về hình thức giúp ta nhận diện nỗi buồn, nỗi mặc cảm thân phận của tác giả. Trong cuốn tùy bút này, Vũ Bằng nhiều lần tự gọi mình là “người xa quê”, “người khách xa nhà”, “người xa nhà”, “người mắc bệnh lưu lý”, “người ly hương”, “du khách đa xuân tứ”, “người đàn ông oan khổ lưu ly”, “người khách tương tư cố lý”, “người sầu xứ” Lối định danh vừa cụ thể vừa trữ tình như thế tạo ra cách giới thiệu nhân vật không chỉ duyên dáng, mềm mại mà còn hàm ẩn những day dứt về thân phận chia lìa, ly tán. Lối định danh ấy cũng cho thấy rất rõ ý thức, mặc cảm của nhà văn về thực trạng cô đơn, bơ vơ, lạc loài của mình. Con người trong văn học Việt Nam 1945-1975 là con người quần chúng được đặt trong một đoàn thể, một đội ngũ, đặt vào dòng chảy chung của đời sống và các sự kiện lớn lao của cộng đồng. Cái tôi trong văn học, trong thơ ca kháng chiến, vì thế, sẽ là cái tôi công dân hòa hợp trọn vẹn với cái ta nhân loại trong niềm vui bất tuyệt của những tháng ngày khói lửa. Để trở thành nền văn học xung kích, nhà văn sẽ tránh nhắc đến buồn đau, càng tránh nói về nỗi cô đơn. “Thương nhớ mười hai” thuộc về thành tựu của Văn học đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975, “một bộ phận văn học tồn tại với những nội dung, đặc điểm, quy luật riêng, khác với văn học cách mạng” [3; 17]. Điều đó lí giải vì sao cách cảm thụ cuộc sống và con người của Vũ Bằng trong tùy bút này đi chệch khỏi quỹ đạo thông thường của nền văn học phục vụ và cổ vũ chính trị. Cần thấy rằng, tâm lí cô đơn là trạng thái thường trực của cái tôi tác giả trong “Thương nhớ mười hai”, nó trở thành động lực đưa Vũ Bằng trở về, đắm đuối trong những hoài niệm ấm áp, tươi xanh. Nó cũng là động lực để nhà văn dệt gấm hoa lên không gian thiên nhiên, không gian sinh tồn và không gian văn hóa Bắc Việt. Từ đây, thiên tùy bút truyền cho người đọc những hiểu biết thú vị, tình yêu và sự gắn bó máu thịt với mảnh đất chôn nhau cắt rốn của mình. 3. KẾT LUẬN Vũ Bằng bắt đầu viết “Thương nhớ mười hai” vào đầu năm 1960, năm 1965 ông viết tiếp và đến năm 1971, cuốn sách mới có hình hài. Vậy là phải cần đến hơn chục năm để nhà văn hoàn thành bản thảo của mình. Quãng thời gian 11 năm dài đằng đẵng ấy đủ để thấy nỗi nhớ thương đất Bắc oằn nặng và khắc khoải thế nào trong ông. Áng văn độc đáo, tài hoa này đâu chỉ là những hoài niệm da diết, mãnh liệt của kẻ ly hương muốn tìm về nguồn cội mà nó còn làm hiển hiện thật rõ hình tượng cái tôi tác giả mang tâm trạng cô 65TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020 đơn, lạc loài nơi đất khách. Hình tượng ấy cho chúng ta hiểu hơn về tâm tư người viết trong những ngày tháng đất nước biến động, về những éo le của hoàn cảnh cắt chia và về tình yêu thuần khiết nhưng cao ngần mà Vũ Bằng dành cho quê hương đất nước. Thiên tùy bút này ra đời không vì mục đích nghệ thuật. Nhưng vượt ra ngoài chủ định của người viết, “Thương nhớ mười hai” đã trở thành tác phẩm kết tinh tài năng nghệ thuật sáng chói trong cuộc đời cầm bút Vũ Bằng. Hoàng Phủ Ngọc Tường từng cho rằng, những trang kí gây xúc động bởi trước khi chảy qua ngòi bút đã chảy qua trái tim của anh như một dòng máu. Với ý nghĩa ấy, thiết nghĩ, “Thương nhớ mười hai” chính là một tùy bút có khả năng lay động hồn người. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vũ Bằng (2003), “Thương nhớ mười hai”, Mê chữ, Miếng ngon Hà Nội, Món lạ miền Nam, NXB Văn học, Hà Nội. 2. Văn Giá (2000), Vũ Bằng, bên trời thương nhớ - NXB VHTT, Hà Nội 3. Nguyễn Văn Long (CB)(2016), Văn học Việt Nam từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, NXB ĐHSP, Hà Nội.
File đính kèm:
- cai_toi_co_don_lac_loai_cua_vu_bang_trong_tuy_but_thuong_nho.pdf