Các yếu tố tác động đến quyết định chi trả cổ tức bằng tiền của các doanh nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn giảm thuế suất

Tóm tắt

Có nhiều yếu tố tác động đến quyết định chi trả cổ tức bằng tiền của doanh nghiệp, để

hỗ trợ cung cấp thông tin khoa học cho việc ra quyết định này, trên thế giới đã có

nhiều nghiên cứu về các yếu tố tác động đến quyết định cổ tức bằng tiền trong giai

đoạn thay đổi thuế, tuy nhiên hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu trong nước quan tâm

đến yếu tố thay đổi thuế trong vấn đề nghiên cứu trên. Nghiên cứu này xem xét các

yếu tố tác động đến quyết định cổ tức bằng tiền trên thị trường chứng khoán Việt Nam

trong giai đoạn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhóm nghiên cứu sử dụng phương

pháp ước lượng hồi quy nhị phân probit và phân tích xác suất tác động biên với mẫu

dữ liệu gồm 250 doanh nghiệp phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán

Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2011-2014. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trong

giai đoạn giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp, thời gian niêm yết, giá trị sổ

sách, sở hữu bởi nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức, tiền và chứng khoán khả

mại, lợi nhuận ròng và thâm hụt tài chính có tác động đến chính sách cổ tức bằng tiền

thông qua quyết định giảm chi trả cổ tức bằng tiền mặt và quyết định không chi trả cổ

tức bằng tiền.

pdf17 trang | Chuyên mục: Tài Chính Doanh Nghiệp | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 490 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Các yếu tố tác động đến quyết định chi trả cổ tức bằng tiền của các doanh nghiệp tại Việt Nam trong giai đoạn giảm thuế suất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ủa chính sách giảm 
thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp của nhưng chỉ ở mức rất thấp. Điều này chứng 
tỏ việc giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp có ảnh hưởng tới quyết định chi trả 
cổ tức của doanh nghiệp, trùng với giả thiết 𝑯2 mà nhóm đặt ra., phù hợp với nghiên 
cứu của Abhiroop Mukherjee và các cộng sự (2017), Julian Atanassov and Xiaoding 
Liu (2015), Simeon Djankov và các cộng sự (2010); Cummins và các cộng sự (1996) 
vì các nghiên cứu này đều nói rằng việc giảm thuế tạo động lực thúc đẩy phát triển 
doanh nghiệp đầu tư hơn là tập trung vào việc chi trả cổ tức. 
Biến AGE với độ tin cậy là 90% và có mức xác suất là -0.73%, nếu thời gian 
niêm yết tăng 1% thì quyết định không chi trả cổ tức bằng tiền sẽ giảm 0.73%, điều 
này chứng tỏ với xác suất rất thấp thì doanh nghiệp có thời gian niêm yết lớn thường 
quyết định không chi trả cổ tức bằng tiền là ít hơn, đúng với giả thiết 𝑯3. Thông 
thường, những doanh nghiệp có thời gian niêm yết lâu cũng như có độ tuổi càng lớn 
thì càng có chính sách cổ tức bằng tiền đều đặn, bởi các doanh nghiệp này đã phát 
triển một thời gian khá dài nên các doanh nghiệp này thường lựa chọn chính sách cổ 
tức ổn định. Điều này phù hợp với nghiên cứu của Devereux and Schiantarelli (1990), 
B. Buchanan và các cộng sự (2016), Trương Đông Lộc (2015), Alex Coad và các cộng 
sự (2016) bởi các bài nghiên cứu này cho rằng, thời gian niêm yết càng cao thì các 
doanh nghiệp sẽ thiên theo hướng là có chính sách cổ tức ổn định, bảo vệ lợi ích cho 
nhà đầu tư, còn những doanh nghiệp mới niêm yết thì sẽ dành nhiều vốn hơn cho việc 
chi tiêu đầu tư, phát triển doanh nghiệp. 
Biến NDT, là tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư trong doanh nghiệp có mức độ ảnh 
hưởng đến quyết định không chi trả cổ tức bằng tiền của doanh nghiệp với mức ý 
nghĩa cao là 1%. Điều này chứng tỏ, giả định các yếu tố còn lại trong mô hình được cố 
định tại các giá trị trung bình, xác suất không chi trả cổ tức bằng tiền của các doanh 
nghiệp có tỷ lệ sở hữu bởi nhà đầu tư tổ chức chiếm ưu thế thì sẽ thấp hơn 4.75% so 
với doanh nghiệp có tỷ lệ sở hữu bởi nhà đầu tư cá nhân chiếm ưu thế, nếu như tỷ lệ 
nhà đầu tư tổ chức chiếm ưu thế trong các doanh nghiệp tăng 1% thì quyết định không 
chi trả cổ tức bằng tiền sẽ giảm 4.75%. Có nghĩa các doanh nghiệp có tỉ lệ sở hữu bởi 
nhà đầu tư tổ chức chiếm ưu thế thì sẽ chia cổ tức bình thường hoặc nhiều hơn nhà 
đầu tư các nhân, ngược với giả thiết 𝑯4. Điều này phản ánh đúng với kết quả nghiên 
cứu của Maximiliano Gonzalez và các cộng sự (2017), có nghĩa là có sự tác động 
ngược chiều giữa mức chi trả cổ tức bằng tiền và tỉ lệ sở hữu doanh nghiệp là cá nhân, 
những doanh nghiệp có tỉ lệ nhà đầu tư cá nhân chiếm ưu thế thì sẽ có mức chi trả cổ 
tức bằng tiền thấp hơn. Và trong bài nghiên cứu của Wei Huang Donna L. Paul (2016) 
thì ngược lại, những doanh nghiệp có tỉ lệ nhà đầu tư tổ chức chiếm ưu thế thì sẽ có xu 
hướng ưu tiên giữ lại nhiều hơn, chi trả cổ tức bằng tiền ít hơn. Từ đó cho thấy, ở mỗi 
vùng, mỗi đất nước sẽ có chính sách ưu tiên chi trả cổ tức khác nhau, nhưng đa phần 
thì những doanh nghiệp có tỉ lệ nhà đầu tư là tổ tức chiếm tỉ lệ lớn trong doanh nghiệp 
thì sẽ tăng giá trị doanh nghiệp thông qua việc giữ lại thu nhập nhiều hơn thay cho 
việc chi trả cổ tức bằng tiền. 
Biến CBE, là biến đại diện cho lượng tiền và chứng khoán khả mại của doanh 
nghiệp, thể hiện nguồn lực sẵn có mà doanh nghiệp có thể sử dụng, với giả định các 
yếu tố còn lại trong mô hình được cố định tại các giá trị trung bình thì với xác suất là -
12,72%, các doanh nghiệp có lượng tiền và chứng khoán khả mại càng dồi dào thì sẽ 
ít có quyết định là không chi trả cổ tức bằng tiền. Bởi với một nguồn lực sẵn có như 
vậy, nếu không sử dụng cho đầu tư phát triển, thì các doanh nghiệp này sẽ có thể chi 
trả cổ tức cho cổ đông. Ngược với giả thiết 𝑯10 mà nhóm đặt ra. 
Biến NITBE, là lợi nhuận ròng trên giá trị sổ sách của doanh nghiệp, biến này 
cũng mang giá trị âm với xác suất -15.42%. Có nghĩa rằng nếu doanh nghiệp có lợi 
nhuận ròng càng tăng 1% thì càng có khả năng quyết định không chi trả cổ tức bằng 
tiền giảm 15.42%. Kết quả này đúng với nghiên cứu của Ahmed và Javid (2009), cho 
rằng các doanh nghiệp có quyết định chi trả cổ tức bằng tiền hay không phụ thuộc vào 
lợi nhuận hiện tại của các doanh nghiệp là chính. Điều này cũng đúng với bài nghiên 
cứu của Baker và các cộng sự (1985), DeAngelo và DeAngelo (1990), Pruitt và 
Gitman (1991), Aivazian và các cộng sự (2003), Jensen và các cộng sự (1992) với kết 
luận rằng các doanh nghiệp càng có lợi nhuận cao thì càng có khả năng để chi trả cổ 
tức bằng tiền với mức cao. Phù hợp với giả thiết 𝑯9. 
Ngoài ra, biến lnFD, mức thâm hụt tài chính khi chạy xác suất với biến phụ 
thuộc là giảm chi trả cổ tức bằng tiền thì có ý nghĩa thống kê tại 5%, với xác suất 
0.51% thì những doanh nghiệp có mức thâm hụt tài chính tăng 1% thì có quyết định 
giảm chi trả cổ tức bằng tiền tăng 0.51%. Bởi những doanh nghiệp có mức thâm hụt 
tài chính đều không có tiền sẵn để chi trả cổ tức cho cổ đông, nguyên nhân có thể do 
thua lỗ hoặc do đầu tư nhiều, đúng với giả thiết 𝑯7. Cũng tương tự như bài nghiên cứu 
của B. Buchanan và các cộng sự (2016), những doanh nghiệp có mức thâm hụt tài 
chính càng lớn thì ít có khả năng để bắt đầu hoặc tăng chi trả cổ tức. 
6. Kết luận 
Kết quả hồi quy cuối cùng của nhóm nghiên cứu cho thấy, trong số tất cả 8 biến, 
chỉ có một số biến không có ý nghĩa thống kê, có nghĩa là phần lớn các biến đưa vào 
mô hình có tác động tới quyết định chi trả cổ tức bằng tiền hoặc quyết định không chi 
trả cổ tức bằng tiền, giải thích khá đúng thị trường chứng khoán trong giai đoạn này 
tại Việt Nam. Xuyên suốt từ năm 2011 đến 2014 thì các doanh nghiệp trên Sở giai 
dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh cũng có xu hướng giảm mức chi trả cổ tức 
bằng tiền, có nghĩa là thuế thay đổi có ảnh hưởng đến chính sách chi trả cổ tức bằng 
tiền của doanh nghiệp, cụ thể thông qua xác suất biên, khi giảm thuế thì xác suất để 
doanh nghiệp quyết định giảm chi trả cổ tức bằng tiền là 4.97%, Điều này khá đúng 
với kết quả của bài nghiên cứu Nguyễn Ngọc Huy, Trương Thị Mỹ Trâm (2016). 
ngoài ra thì thời gian niêm yết có tác động tới quyết định chi trả cổ tức bằng tiền 
thông qua việc nếu thời gian niêm yết càng lâu thì các doanh nghiệp sẽ càng ít có khả 
năng là sẽ quyết định giảm chi trả cổ tức bằng tiền. Tỷ lệ nhà đầu tư chiếm ưu thế 
trong doanh nghiệp, kết quả hồi quy của nhóm nghiên cứu cho ra là những doanh 
nghiệp có tỷ lệ sở hữu bởi NDT tổ chức chiếm ưu thế thì những doanh nghiệp này 
không quyết định giảm chi trả cổ tức bằng tiền, có nghĩa các doanh nghiệp sẽ chi trả 
cổ tức bính thường hoặc nhiều hơn. Tiền và chứng khoán khả mại cũng có tác động 
theo chiều âm, có nghĩa những doanh nghiệp đang nắm giữ lượng tiền càng lớn thì sẽ 
ít có quyết định là giảm chi trả cổ tức bằng tiền. Hơn nữa, các yếu tố như lợi nhuận 
ròng và thâm hụt tài chính cũng có ảnh hưởng tới quyết định chi trả cổ tức bằng tiền. 
Kết quả của bài nghiên cứu cho thấy, trong giai đoạn giảm thuế suất thuế thu nhập 
doanh nghiệp, các doanh nghiệp có quyết định giảm chi trả cổ tức, nhưng với xác suất 
không cao, đa phần phụ thuộc vào các yếu tố nội tại của doanh nghiệp hơn, nói đúng 
hơn là sự can thiệp của chính sách của Chính phủ vào hoạt động sản xuất kinh doanh 
của doanh nghiệp tại Việt Nam chưa thực sự hiệu quả, cần nhiều thời gian hơn để xem 
xét hoặc đưa ra những chính sách tạo điều kiện phát triển cho các doanh nghiệp mãnh 
mẽ hơn. Ngoài ra, nghiên cứu có một số ý nghĩa quan trọng trong đầu tư tài chính: 
Thứ nhất, nhà đầu tư có thể dựa vào kết quả nghiên cứu để lựa chọn cổ phiếu đầu tư 
phù hợp với mục đích bản thân. Thứ hai, nghiên cứu có thể là tài liệu tham khảo đối 
với những bài nghiên cứu sau này có liên quan giữa thay đổi thuế và chính sách cổ tức 
bằng tiền. Bên cạnh đó, bài nghiên cứu mở ra một hướng nghiên cứu khác như quan 
tâm đến tỷ lệ sở hữu nhà đầu tư nước ngoài ảnh hưởng đến chính sách cổ tức bằng tiền 
của doanh nghiệp ở Việt Nam hoặc mở rộng thời gian nghiên cứu để kết quả có thể 
chính xác hơn. 
Tài liệu tham khảo 
1. Adaoglu, C. (2000), “Instability in the dividend policy of the Istanbul Stock 
Exchange (ISE) corporations: evidence from an emerging market”, Emerging 
Markets Review, pp 252-270. 
2. Gill, A., Biger, N., & Tibrewala, R. (2010), “Determinants of dividend payout 
ratios: evidence from United States”, The Open Business Journal, 3(1). 
3. Lộc, T. Đ., & Tiến, P. P. (2015), “Các nhân tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức 
của các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí 
MinhXuất bản”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ, 38, 67-74. 
4. Nizar Al-Malkawi, H. A. (2007), “Determinants of corporate dividend policy in 
Jordan: an application of the Tobit model”, Journal of Economic and 
Administrative Sciences, 23(2), 44-70. 
5. Ahmed, H., A.Y. Javid (2009), “The determinants of dividend policy in 
Pakistan”, International Research Journal of Finance and Economics, 29, pp 110 – 
125. 
6. Buchanan, B. G., Cao, C. X., Liljeblom, E., & Weihrich, S. (2017), 
“Uncertainty and firm dividend policy - A natural experiment”, Journal of 
Corporate Finance, 42, pp 179-197. 
7. DeAngelo, H., & DeAngelo, L. (1990), “Dividend policy and financial distress: 
An empirical investigation of troubled NYSE firms”, The Journal of 
Finance, 45(5), pp 1415-1431. 
8. Djankov, S., Ganser, T., McLiesh, C., Ramalho, R., & Shleifer, A. (2010), 
“The effect of corporate taxes on investment and entrepreneurship”, American 
Economic Journal: Macroeconomics, 2(3), 31-64. 
9. Edgerton, J. (2013), “Four facts about dividend payouts and the 2003 tax 
cut”, International Tax and Public Finance, 20(5), pp 769-784. 
10. Vinh, V, X., (2013), “Các yếu tố ảnh hưởng đến chính sách cổ tức bằng tiền 
mặt”, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, 197, trang 36-43. 

File đính kèm:

  • pdfcac_yeu_to_tac_dong_den_quyet_dinh_chi_tra_co_tuc_bang_tien.pdf
Tài liệu liên quan