Vốn xã hội trong hoạt động nghiên cứu khoa học ở Việt Nam
Tóm tắt: Vốn xã hội trong hoạt động khoa học và công nghệ (KH&CN) của các nhóm nghiên cứu
mạnh (NNCM) được thể hiện ở mạng lưới liên kết bền vững giữa các nhà nghiên cứu, sự tin cậy
trong hoạt động KH&CN, quan hệ hỗ trợ nhau trong hoạt động KH&CN. Ở Việt Nam hiện nay,
vốn xã hội đã tác động tích cực đến hiệu quả hoạt động của NNCM, được thể hiện và sử dụng
trong mọi hoạt động KH&CN. Đó là xây dựng các định hướng nghiên cứu, ý tưởng nghiên cứu;
thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, đề tài và dự án; triển khai các hoạt động hợp tác quốc tế, đào
tạo; công bố khoa học trong và ngoài nước; chuyển giao tri thức; thương mại hóa kết quả nghiên
cứu. Việt Nam muốn sử dụng hiệu quả hơn vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN, thì cần đẩy
mạnh xây dựng vốn xã hội ở cấp vĩ mô, trung mô và vi mô; có chính sách khuyến khích thỏa đáng
cho các NNCM; đồng thời phát huy vai trò của truyền thông xã hội.
h sự kết nối giữa các NNCM với các nhóm nghiên cứu trong nước bằng nhiều hình thức. Hỗ trợ, cung cấp thông tin cho các nhà khoa học để họ giao lưu, tiếp xúc với các đối tác trong và ngoài nước. Kết nối tri thức, thiết lập môi trường học thuật để các cá nhân nâng cao trình độ, trao đổi kinh nghiệm học thuật, giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cần thường xuyên tổ chức các cuộc hội thảo, trao đổi ý tưởng, nhiệm vụ nghiên cứu giữa các NNCM với lãnh đạo các trường đại học. Các NNCM cần có báo cáo định kỳ về các hoạt động và kế hoạch hành động của nhóm mình; công khai thông tin trên các website của nhóm. Dựa vào các tiêu chí liên quan đến hiệu quả hoạt động và các sản phẩm KH&CN, hàng năm cần có xếp hạng và đánh giá đối với các NNCM. Ở cấp vi mô, các nhà khoa học là thành viên của các NNCM cần tăng cường sự trao đổi thông tin, gặp gỡ nhau thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn định kỳ, các cuộc hội thảo khoa học. Ở các hội thảo, tiếp xúc cá nhân là cơ hội lớn nhất cho các nhà khoa học, nhất là cho các nhà khoa học trẻ để họ tìm ra các đề tài khoa học thời sự. Qua những bài diễn giảng, trao đổi bên lề, các nhà khoa học sẽ cởi mở hơn nhiều và sẵn sàng chia sẻ việc họ đang làm và những khúc mắc trong quá trình nghiên cứu. Đây chính là cơ hội để các nhà khoa học trẻ được tham gia vào những công trình nghiên cứu lớn, đẩy mạnh các hình thức cộng tác trong khoa học. Bên cạnh đó, cần đẩy mạnh các hoạt động xây dựng nhóm để tăng cường sự gắn kết, tình cảm giữa các thành viên trong NNCM. Thực tế khảo sát cho thấy, ở ĐHQGHN vẫn còn tới 9,1% số NNCM hiếm khi hoặc không bao giờ có các hoạt động xây dựng nhóm và sinh hoạt học thuật. Thứ hai, cần có chính sách khuyến khích thỏa đáng cho các NNCM. Các cơ sở nghiên cứu và đào tạo cần đầu tư cho các NNCM một cách thỏa đáng; tạo động lực cho các thành viên NNCM; tạo lập môi trường làm việc chuyên nghiệp; đồng thời cần ghi nhận, đánh giá thường xuyên đối với các NNCM. Hiện nay, nhiều trường đại học đã có sự hỗ trợ về tài chính đối với NNCM (như Trường Đại học Công nghệ hỗ trợ 50 triệu đồng/NNCM; Trường Đại học Khoa học Tự nhiên hỗ trợ khoảng 20-30 triệu đồng/NNCM). Tuy nhiên, sự hỗ trợ về tài chính hàng năm của các trường đại học còn rất khiêm tốn. Trong thực tế của ĐHQGHN, số giờ giảng của các thành viên NNCM không được giảm so với quy định tiêu chuẩn đối với NNCM. Điều này cũng làm ảnh hưởng đến thời gian nghiên cứu của các thành viên NNCM. Việc ghi nhận và đánh giá thường xuyên đối với các nhóm này cũng rất quan trọng, và cần có các tiêu chí rõ ràng. Trong chính sách phát triển các NNCM, cần có sự định hướng rõ ràng về Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 80 các mô hình phát triển của NNCM (để các nhóm này trở thành “trung tâm xuất sắc” (Centre of Excellence), hay phòng thí nghiệm trọng điểm, hay trường phái khoa học. Việt Nam cần có quy định rõ và làm rõ các tiêu chí của trường phái khoa học...). Thứ ba, cần phát huy vai trò của truyền thông xã hội. Các nhà khoa học ngày nay không chỉ cần biết làm khoa học, mà còn cần có kỹ năng truyền thông, giới thiệu các sản phẩm khoa học của mình thông qua các công cụ truyền thông (như các trang mạng xã hội, blog). Những trang mạng kết nối mạng lưới xã hội chuyên biệt về khoa học, như ResearchGate, Academia, Google Scholar, LinkedIn, là những công cụ rất tốt hỗ trợ cho giới học thuật. Tham gia các mạng lưới liên kết này, các nhà nghiên cứu có thể đăng tải các bài nghiên cứu của mình, xây dựng mạng lưới giữa các nhà nghiên cứu, đưa ra các thảo luận và tương tác trực tiếp. Ngoài ra, các trang mạng này giúp người dùng theo dõi chỉ số ảnh hưởng các bài nghiên cứu của họ. Như vậy, các nhà khoa học có thể tận dụng thế mạnh của truyền thông xã hội để phục vụ cho công việc của mình. Tuy mạng xã hội không thể thay thế cho việc tham gia hội thảo khoa học, viết bài báo khoa học trên các tạp chí khoa học quốc tế, nhưng mạng xã hội có thể giúp chuyển tải các thông tin về công trình nghiên cứu một cách nhanh chóng và rộng rãi hơn. Người dùng cũng cần xác định rõ mục đích của mình khi sử dụng mạng xă hội để tiến hành một cách hiệu quả nhất. Theo báo cáo “Mạng xã hội: Cẩm nang cho các nhà nghiên cứu” [12], khi sử dụng mạng xã hội vào nghiên cứu khoa học thì hợp tác hiệu quả hơn; chia sẻ và trao đổi kinh nghiệm thuận lợi hơn; trong quá trình nhận phản hồi cũng thuận lợi hơn; giới thiệu công trình nghiên cứu nhanh hơn so với các phương thức xuất bản học thuật truyền thống. Thêm vào đó, việc sử dụng mạng xã hội có tác dụng như một công cụ quảng bá cho sản phẩm đầu ra của các nghiên cứu, giúp tăng chỉ số Altmetrics (sự quan tâm và các thảo luận xung quanh kết quả nghiên cứu) trên mạng xã hội, các báo, các tạp chí và các trang website mở. Một công cụ xã hội hữu ích của Tập đoàn xuất bản quốc tế Elsevier là Mendeley [13]. Công cụ này giúp đánh dấu, trích dẫn và quản lý tài liệu tham khảo, cho phép tìm kiếm, tải lên và tổ chức các bài viết, số liệu từ nhiều cơ sở dữ liệu, tạo danh mục tài liệu tham khảo cho các bài viết. Bên cạnh đó, Mendeley cũng có chức năng liên kết mạng lưới xã hội, giúp người dùng tạo hồ sơ nghiên cứu cá nhân, theo dõi và kết nối với các nhà nghiên cứu khác để tìm kiếm và xác định các xu hướng nghiên cứu cũng như chia sẻ danh mục trích dẫn. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng cần lưu ý một số vấn đề khi lựa chọn và sử dụng mạng xã hội. Điều quan trọng nhất là cần lựa chọn một mạng xã hội phù hợp với mục đích sử dụng. Quản lý khối lượng công việc và thời gian sử dụng mạng xã hội hợp lý sẽ làm tăng năng suất và chất lượng công trình nghiên cứu. Để dùng mạng xã hội như một phần quan trọng của mạng lưới nghiên cứu một cách có hiệu quả, cần có sự tương tác trong việc chia sẻ và phản hồi thông tin giữa các nhà khoa học. Các nhà khoa học cũng cần tuân thủ các nguyên tắc về bản quyền khi sử dụng và chia sẻ các thông tin nghiên cứu. 4. Kết luận Vốn xã hội trong hoạt động KH&CN của các NNCM được thể hiện ở mạng lưới liên kết bền vững giữa các nhà nghiên cứu; sự Nguyễn Thị Hương Giang 81 tin cậy trong hoạt động KH&CN; quan hệ hỗ trợ nhau trong hoạt động KH&CN. Ở Việt Nam, vốn xã hội được thể hiện và sử dụng trong mọi hoạt động KH&CN (trong hoạt động nghiên cứu khoa học, hoạt động triển khai công nghệ; trong xây dựng các định hướng nghiên cứu, ý tưởng nghiên cứu; trong thực hiện các nhiệm vụ đề tài, dự án; trong hoạt động hợp tác quốc tế, đào tạo, công bố khoa học; trong hoạt động chuyển giao tri thức, thương mại hóa công nghệ, kết quả nghiên cứu). Vốn xã hội (đặc biệt trong đó là sự dẫn dắt của trưởng NNCM, mạng lưới nghiên cứu hiệu quả, quan hệ hợp tác quốc tế và với các tổ chức trong và ngoài nước của trưởng NNCM, sự tin tưởng lẫn nhau giữa các thành viên NNCM) có tác động quan trọng đến hiệu quả hoạt động của NNCM. Để có thể sử dụng hiệu quả và làm giàu vốn xã hội trong các hoạt động KH&CN của các NNCM, cần có những chính sách đẩy mạnh vốn xã hội từ cấp vi mô, trung mô, đến vĩ mô. Đó chính là việc đẩy mạnh sự kết nối, mạng lưới nghiên cứu giữa các NNCM với nhau, giữa các NNCM với các mạng lưới xã hội khác trong và ngoài nước; đẩy mạnh các hình thức cộng tác trong các hoạt động KH&CN; có chính sách tài chính hỗ trợ cho các hoạt động nghiên cứu, công bố; tạo lập môi trường làm việc, nghiên cứu thuận tiện, chuyên nghiệp; tạo động lực cho các cá nhân và NNCM làm việc. Bên cạnh đó, các nhà khoa học cũng cần tận dụng lợi thế của các công cụ truyền thông xã hội phổ biến trong giới nghiên cứu; kết nối nhiều hơn với mạng lưới nghiên cứu trong và ngoài nước, đồng thời cập nhật, chia sẻ thông tin, kết quả nghiên cứu của mình một cách nhanh nhất và hiệu quả. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Tuấn Anh (2011), “Vốn xã hội và vai trò của nó trong việc thích ứng và phát triển kinh tế ở nông thôn Bắc Trung Bộ trong thời kỳ đổi mới”, Hội thảo quốc tế “Đóng góp của Khoa học Xã hội và Nhân văn trong phát triển kinh tế - xã hội”, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội. [2] Nguyễn Ngọc Bích (2006), “Vốn xã hội và phát triển”, Tạp chí Tia Sáng điện tử ngày 19/04/2006. [3] Vũ Cao Đàm (2013), “Vốn xã hội cho phát triển KH&CN Việt Nam”, Tạp chí Tia Sáng, số 2. [4] Trần Hữu Dũng (2003), “Vốn xã hội và Kinh tế”, Thời Đại, Số 8. [5] Trần Hữu Dũng (2006), “Vốn xã hội và phát triển kinh tế”, Kỷ yếu Hội thảo về Vốn xã hội và Phát triển, Tp. Hồ Chí Minh. [6] Phan Đình Diệu (2006), “Phát huy dân chủ để làm giàu nguồn Vốn xã hội”, Tạp chí Tia Sáng, số 7. [7] Lê Ngọc Hùng (2008), “Vốn xã hội, vốn con người và mạng lưới xã hội qua một số nghiên cứu ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Con người, số 37. [8] Hoàng Bá Thịnh (2009), “Vốn xã hội, mạng lưới xã hội và những phí tổn”, Tạp chí Xã hội học, số 1. [9] Nguyễn Thị Ánh Tuyết, Bùi Thị Phương (2014), “Vốn xã hội từ một số cách tiếp cận nghiên cứu trên thế giới”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4. [10] Đào Mạnh Quân (2019), “Chính sách phát triển nhóm NNCM ở ĐHQGHN: Thực trạng và giải pháp”, Hội thảo khoa học quốc gia Phát triển nhóm nghiên cứu trong các trường đại học: Cơ sở lý luận, kinh nghiệm trong nước và quốc tế, thực trạng phát triển các nhóm nghiên cứu ở các trường đại học Việt Nam hiện nay, Trường Đại học Công nghệ - Đại học Quốc gia Hà Nội. [11] Margaret Heffernan (2015), “The secret ingredient that makes some teams better than others”, https://ideas.ted.com/the-secret-ingredient-that- makes-some-teams-better-than-others/ [12] xa-hoi-trong-nghien-cuu-trao-doi-hoc-thuat- va-cong-bo-quoc-te-d-6328, truy cập ngày 10/10/2018. [13] https://www.mendeley.com/?interaction _required=true, truy cập ngày 10/10/2018. Khoa học xã hội Việt Nam, số 3 - 2019 82
File đính kèm:
- von_xa_hoi_trong_hoat_dong_nghien_cuu_khoa_hoc_o_viet_nam.pdf