Vai trò của giới Nho thương người Hoa Chợ Lớn trong việc truyền bá "Truyện Kiều" ở Nam Bộ
ABSTRACT
Tale of Kieu is a literary masterpiece of Nguyen Du in the early 19th century.
This work is not only widely circulated from the capital Hue to the north, but
also spread widely in the Southern Vietnam several decades later in many
forms, texts or speechs, Nôm versions or Chinese versions and Quốc ngữ
versions. At that time, printing technology was not developed in the Southern
Vietnam, the price of ink and paper in the market is quite expensive, copying
takes time, but the demand of the reader was enormous. As a result, the
bookshops in Cho Lon (Gia Dinh) had to print Tale of Kieu in Foshan
(Guangdong) and brought them back to the Southern Vietnam, contributing
to its popularity in Southern Vietnam.
lần, nghĩa là trước nay có 4 bản Kiều được in ở Phật Sơn. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân, bản Kiều Duy Minh Thị in ở Kim Ngọc Lâu (1872) còn được tái bản 3 lần tại các nhà in Bảo Hoa Các (1879), Văn Nguyên Đường (1879) và Thiên Bảo Lâu (1891) ở Phật Sơn. Hơn nữa, các bản in sau đều khắc in giống như bản in đầu tiên (Nguyễn Quảng Tuân, 2010). Dù các bản in này còn nhiều sai sót về chữ nghĩa, có thể do Duy Minh Thị hiệu đính chưa kĩ, hoặc quá trình in ấn ở Quảng Đông không có người thông thạo chữ Nôm theo dõi, thế nhưng trong suốt 20 năm từ bản đầu tiên đến bản cuối cùng, bản in này vẫn được độc giả dễ tính miền Nam chấp nhận. Đáng chú ý là, theo học giả Hoàng Xuân Hãn, bản in này chỉ kị húy thời Gia Long chứ không kị húy thời Minh Mạng, theo đó suy luận thì Duy Minh Thị đã hiệu đính Truyện Kiều dựa trên một bản chép tay có nguồn gốc sao chép từ thời Gia Long (1802-1820). Sẽ là võ đoán nếu cho rằng trong khoảng thời gian này Truyện Kiều cũng đã được truyền đến Nam Bộ, thế nhưng không phải không có khả năng đó nếu chúng ta chưa tìm ra được những chứng cứ xác đáng. Cùng thời gian đó, nhiều tác phẩm truyện thơ và tuồng hát bội Nôm khác cũng được khắc in ở Phật Sơn như Vân Tiên cổ tích tân truyện, Lục Vân Tiên, Phạm Công Cúc Hoa, Chiêu Quân cống Hồ, Thoại Khanh Châu Tuấn thư tập, Bạch viên tân truyện, Đinh Lưu Tú diễn nghĩa, Tiểu San Hậu diễn ca, Triệu Ngũ Nương tân thư, Tây du diễn ca, Tam Quốc chí quốc ngữ bản... Có thể thấy, các chủng loại sách chữ Nôm lưu hành ở Nam Bộ đương thời khá phong phú, đa phần đều là tác phẩm diễn ca từ những tiểu thuyết hay tuồng tích Trung Quốc. Việc gửi in ấn với số lượng lớn cho thấy nhu cầu thưởng thức sách Nôm của độc giả Nam Bộ là rất lớn. Câu hỏi đặt ra là tại sao giới Hoa thương miền Nam không chọn các nhà in Liễu Văn Đường, Quan Văn Đường, Thịnh Văn Đường, Cẩm Văn Đường ở miền Bắc hay các hiệu in Huế, thậm chí những nơi đã từng tổ chức in ấn sách vở, kinh kệ ngay tại Gia Định như Hà Tiên, chùa Giác Lâm (Sài Gòn) làm nơi in sách, mà phải sang tận Quảng Đông? Trong bài viết của mình, Nghiêm Diễm đã đưa ra 4 lý do chính: (1) Phật Sơn là trung tâm in ấn phát hành sách lớn: Chất lượng khắc in cao, bản in gọn đẹp tinh xảo, trong khi giá thành lại rẻ; hơn nữa, Phật Sơn có hệ thống thương hội phồn thịnh với nhiều hiệu sách, hiệu giấy, hiệu mực; từ khâu khắc in đến xuất bản, phát hành đều phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng; tạo nên sự tiện lợi trong giao thương mua bán trong nước và quốc tế; (2) Sự giao lưu kinh tế và văn hóa giữa Nam Bộ và Quảng Đông vốn đã diễn ra thường xuyên và mật thiết; các Hoa thương Chợ Lớn luôn giữ mối quan hệ giao thương mật thiết với nhà buôn ở Quảng Đông. Các tác phẩm chữ AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 1 – 7 6 Nôm đang lưu hành ở Nam Bộ phần nhiều lấy đề tài, văn liệu, bối cảnh, cốt truyện, tình tiết, nhân vật... của các tác phẩm cũng đang lưu hành ở Trung Quốc như Kim Vân Kiều truyện, Tam Quốc diễn nghĩa, Tây du ký, Phong thần diễn nghĩa, Bạch Viên Tôn Các... nên đã có sẵn các bản khắc mộc hoạt tự chữ Hán ở đó, chỉ cần khắc thêm bộ phận chữ Nôm; (3) Phật Sơn có vị trí địa lý thuận lợi cho việc truyền bá sách vở ra hải ngoại, bởi nó không chỉ là nơi sứ thần Việt Nam thường lui tới mua sách mang về nước theo đường bộ, mà còn thông qua Quảng Châu, Hoàng Phố tiến hành giao thương đường biển với Việt Nam; (4) Nghề in ấn ở Phật Sơn đáp ứng được nhu cầu khắc in tiểu thuyết thông tục ở Nam Bộ. Đương thời, nhu cầu thưởng thức tiểu thuyết thông tục ở Hoa Nam cũng rất lớn, nhiều nhà sách chuyên môn hoặc kiêm thêm khắc in tiểu thuyết thông tục, việc có thêm đơn đặt hàng từ Việt Nam không phải là thách thức gì quá lớn với họ. Trong lúc các hiệu sách của Phật Sơn khắc in và phát hành rộng rãi Kim Vân Kiều tân truyện của Nguyễn Du, thì nhiều tác giả Việt Nam cũng đã chuyển dịch tác phẩm này ngược lại chữ Hán, như Nguyễn Kiên (阮堅) đã biên dịch, chú thích thành Vương Kim truyện quốc âm (王金傳國音) và Vương Kim truyện diễn tự (王金傳演字), Từ Nguyên Mạc (徐元漠) dịch ra Việt Nam âm Kim Vân Kiều ca khúc dịch thành Hán tự cổ thi thất ngôn luật (越南音金雲翹歌曲譯成漢字古詩七 言律), Lê Dụ (黎裕) dịch thành Kim Vân Kiều Hán tự diễn âm ca (金雲翹漢字演音歌) và Kim Vân Kiều lục (金雲翹錄) (Nghiêm Diễm, 2016, tr.101). Điều này cho thấy sự lưu truyền của Kim Vân Kiều truyện ở Việt Nam nói chung, ở Nam Bộ nói riêng, rất sâu rộng, tạo được cảm hứng sáng tạo và lan truyền tác phẩm trong giới trí thức học sĩ. Riêng ở miền Nam, bản Kim Vân Kiều tân truyện do Duy Minh Thị hiệu đính đã góp phần tạo nên trào lưu phóng tác, lược thuật, cải biên Truyện Kiều thành nhiều “phó phẩm” (Nguyễn Văn Sâm) khác nhau, khiến cho tác phẩm này lan truyền sâu rộng hơn trong lòng công chúng. Kết quả điều tra điền dã của chúng tôi tại Cần Thơ, An Giang cho thấy, nhiều hộ dân hiện nay vẫn còn lưu giữ bản Kiều Duy Minh Thị 1879 và 1891, ngoài ra còn có Phú Kiều Nôm (tên gọi khác của Túy Kiều phú), tuồng Kiều và nhiều bài thơ vịnh Kiều, thậm chí còn có cả bản chép tay Kim Vân Kiều lục (khuyết danh) bằng chữ Hán. Đem các bản sao lục này so sánh với bản đã công bố của Nguyễn Văn Sâm hay Trần Ích Nguyên, dễ dàng phát hiện chúng có chung nguồn gốc văn bản, đương nhiên về mặt câu chữ có nhiều chỗ khác nhau. Quá trình giao dịch sách vở này, ngoài giới thương nhân người Hoa ra, giới văn sĩ gốc Hoa tinh thông tiếng Việt và văn chương Việt ở Chợ Lớn cũng đóng vai trò then chốt. Họ là những người đảm bảo chất lượng bản in chữ Nôm thông qua công việc hiệu đính văn bản trước khi in, trong khi người Trung Quốc vốn không am tường loại chữ đầy sáng tạo đặc trưng của người Việt này. Nổi bật nhất là hai tác giả Duy Minh Thị, chủ nhân hoặc cộng tác viên của hiệu sách Minh Chương Hiệu, và Dương Minh Đức, chủ nhân của hiệu sách Dương Đức Hiệu. Duy Minh Thị (?-?), hay Minh Chương Thị, là bút hiệu của một văn sĩ, viên chức hành chính gốc Hoa sống tại Gia Định nửa cuối thế kỷ 19. Ông tên thật là Trần Quang Quang, nguyên quán huyện Duy Minh (phủ Hoằng Trị, tỉnh Vĩnh Long, nay thuộc tỉnh Bến Tre), có thể là hậu duệ của danh thần triều Nguyễn gốc Minh Hương từng nhiều lần đi sứ Trung Quốc Trịnh Hoài Đức (1765- 1825). Theo khảo cứu của Lưu Ngọc Quân, Duy Minh Thị trong lời tựa quyển Nam Kỳ lục tỉnh địa dư chí có gọi Trịnh Hoài Đức là “Tiên công”, chứng tỏ Duy Minh Thị là hậu duệ của Trịnh Hoài Đức. Tổ tiên nhiều đời của Trịnh Hoài Đức từ Trường Lạc (Phúc Kiến, Trung Quốc), vì không thần phục người Mãn Châu, nên gia tộc xuống thuyền vượt biển sang Việt Nam. Năm 1803, họ Trịnh ra làm quan dưới triều Nguyễn, nhờ tinh thông tiếng Quan Thoại và tiếng Quảng Đông, Phúc Kiến nên được giao làm sứ thần nhiều lần đi sứ nhà Thanh. AGU International Journal of Sciences – 2020, Vol. 24 (1), 1 – 7 7 Ngoài Truyện Kiều, trên trang bìa nhiều tác phẩm khắc in khác ở Phật Sơn cũng thấy xuất hiện tên Duy Minh Thị hiệu đính, hoặc tên các hiệu sách ở Chợ Lớn như Minh Chương Hiệu, Dương Đức Hiệu, Kim Thanh Hiệu. Rất có thể, các ông cũng là những người trực tiếp sang Quảng Đông thương thảo và theo dõi việc khắc in tại Phật Sơn. Còn các tên gọi Đề Ngạn, Đại Thị (Chợ Lớn) thường xuất hiện trên bìa các quyển sách nay thuộc Quận 5, Quận 6 và Quận 11 thành phố Hồ Chí Minh. Nơi có nhiều hiệu sách người Hoa đương thời là phố Đường Nhân và phố Quảng Đông của Chợ Lớn, nay lần lượt là đường Nguyễn Trãi và Triệu Quang Phục. Đặc biệt, Hòa Nguyên Thịnh là một hiệu sách ở Phật Sơn (Quảng Đông), một chi nhánh cùng tên đã được mở ra ở Chợ Lớn để phát hành sách của nhà sách đó ở Việt Nam. 4. KẾT LUẬN Nhìn lại toàn bộ quá trình truyền bá của Truyện Kiều, chúng ta thấy tác phẩm này có một sinh mệnh rất kỳ lạ, từ lúc là một tiểu thuyết chương hồi bạch thoại bình thường ở Trung Quốc được Nguyễn Du tham khảo rồi cải biên, sáng tác thành một truyện thơ Nôm tuyệt tác dài 3254 câu, bắt đầu lưu hành rộng rãi trong nước, rồi lại được các nhà sách ở Chợ Lớn đưa đến Phật Sơn để khắc in, số sách in xong lại vượt trùng dương trở về phát hành tại các hiệu sách trong nước. Trong quá trình truyền bá tác phẩm này, những người làm công tác hiệu đính như Duy Minh Thị, một dạng trí thức gốc Hoa tinh thông Hán Nôm, hoặc các hiệu buôn người Hoa Chợ Lớn giữ một vai trò kết nối quan trọng. Quá trình giao dịch sách vở tiêu tốn nhiều tâm huyết đó kéo dài suốt gần 100 năm, góp phần to lớn vào việc truyền rộng nhiều tác phẩm văn học ở Nam Bộ, trong đó có Truyện Kiều. TÀI LIỆU THAM KHẢO Nhan Bảo (顏保). (1989). Ảnh hưởng của tiểu thuyết Trung Quốc đến văn học Việt Nam (中 國小說對越南文學的影響). Trong Claudine Salmon (chủ biên). (1989). Tiểu thuyết truyền thống Trung Quốc tại Châu Á (中國傳統小說 在亞洲). Bắc Kinh: Công ty xuất bản Văn hóa Quốc tế. Lưu Thục Bình (劉淑萍). (2012). Tìm hiểu hoạt động kinh doanh của các phường in và xuất bản sách ở Phật Sơn (佛山坊刻出版商的商業 活動探析). Phật Sơn Khoa học Kỹ thuật Học viện học báo, 30, tr. 70-73. Nghiêm Diễm (嚴艷). (2016). Khảo thuật về tiểu thuyết và tuồng chữ Nôm của Việt Nam được khắc in ở Phật Sơn cuối triều Thanh (清末佛 山坊刻越南喃字小說戲曲考述). Nghiên cứu Đông Nam Á (Southeast Asian Studies), 1, tr. 94-101. Lưu Ngọc Quân (劉玉珺). (2007). Nghiên cứu văn bản sách vở Hán Nôm cổ Việt Nam (越南 漢喃古籍的文獻學研究). Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục. Trần Ích Nguyên (陳益源). (2001). Nghiên cứu câu chuyện Vương Thúy Kiều (王翠翹故事研 究). Đài Bắc: Lí Nhân thư cục. Trần Ích Nguyên (陳益源). (2016). Thuật bàn về sách vở chữ Hán Việt Nam (越南漢籍文獻述 論). Bắc Kinh: Trung Hoa thư cục. Lý Khánh Tân (李慶新). (2015). Giao lưu sách vở giữa Quảng Đông và Việt Nam dưới nhà Thanh (清代廣東與越南的書籍交流). Nghiên cứu Học Thuật, 12, tr. 93-104. Nguyễn Quảng Tuân (phiên âm và khảo đính). (2010). Truyện Kiều bản Nôm Duy Minh Thị. Hà Nội: Khoa học Xã hội.
File đính kèm:
- vai_tro_cua_gioi_nho_thuong_nguoi_hoa_cho_lon_trong_viec_tru.pdf