Vài nét về nhóm lao động di cư tự do nông thôn - đô thị trong vai trò hỗ trợ kinh tế gia đình
Đô thị hóa ở Việt Nam đang diễn ra với tốc độ cao và di cư là yếu tố quan trọng nhất,
đóng góp 57% vào tăng trưởng dân số đô thị. Theo dự báo, tốc độ tăng trưởng dân số khu vực
đô thị sẽ đạt 2,91%/năm trong giai đoạn 2015-2050, và chỉ tăng 0,13%/năm ở khu vực nông
thôn (UNDP, 2011: 35). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng dân số nội thành tăng không chỉ do
việc mở rộng nội đô mà còn do dòng di cư ngày càng mạnh mẽ từ nông thôn ra thành phố với
nhiều nguyên nhân đa dạng và phức tạp, trong đó phần đông vì lý do kinh tế. Đối với đa số
nông dân Việt Nam, cũng theo UNDP, 2011 thì di chuyển để tìm được việc làm phi nông
nghiệp là một lựa chọn tất yếu, bởi khoảng cách thu nhập quá lớn giữa đô thị với nông thôn,
và bởi sự bấp bênh trong sản xuất nông nghiệp. Kỳ vọng chung cho những quyết định di cư
kinh tế là một cuộc sống tốt hơn cho bản thân và gia đình.
truyền thống vẫn còn được bảo lưu, song gia đình hạt nhân đang ngày càng phát triển. Trong các gia đình có người phụ nữ di cư đặc biệt là gia đình hạt nhân, dường như đã dần có sự dịch chuyển quyền lực từ chồng sang vợ. Xu hướng này có thể là kết quả của sự kết hợp một số yếu tố như thay đổi hệ giá trị và quan điểm đối với phụ nữ, đóng góp vào kinh tế gia đình. Đánh giá về tương quan giữa những đóng góp kinh tế và việc được nâng cao quyền lực của bản thân đối với hộ gia đình ở quê, 10,2% cho rằng quyền lực của họ đã được nâng cao rất nhiều; 48,8% nhận thấy quyền lực và vai trò của bản thân đã phần nào được cải thiện và được thừa nhận; 41,8% cho rằng không có sự thay đổi gì. Việc quản lý nguồn tiền chuyển về phần nhiều dựa vào tình trạng hôn nhân và sắp xếp cư trú của người trả lời. Với những trường hợp đã lập gia đình riêng, nếu một người lên thành phố làm việc thì tiền thường được gửi cho vợ hoặc chồng họ ở nhà cất giữ. Ngoài những chi tiêu cần thiết, họ thường cố gắng cất đi một phần để tích cóp phòng khi cơ hàn. Trường hợp cả hai vợ chồng lên thành phố làm việc, con nhỏ ở quê, số tiền đó vợ chồng có thể tự mang về cất ở nhà nhờ cha mẹ trông nom hoặc gửi về cho cha mẹ cất giữ hộ. Khác với nhóm trên, những người lao động chưa lập gia đình thường gửi tiền về cho cha mẹ quản lý, một phần trong số tiền đó có thể cũng được sử dụng cho gia đình chi tiêu, nuôi các em ăn học, số còn lại cha mẹ sẽ giữ cho họ làm vốn sau khi kết hôn. Biểu 3. Quản lý và sử dụng nguồn tiền chuyển về Đối với cộng đồng nông thôn nơi đi, nguồn tiền chuyển về có thể dùng để giúp đỡ các gia đình khác bằng việc cho bà con xóm giềng vay mượn lúc khó khăn, vay tiền để đầu tư làm Vợ/chồng 44.1 Bố mẹ 39.8 Người trả lời 13.7 Con 2.4 Xã hội học số 2 (122), 2013 Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn ăn, mở rộng sản xuất. Lúc trước chưa trả hết nợ em cũng lo lắm, hàng tháng có tiền lại dành dụm để trả hết đi. Bây giờ xong rồi nhẹ cả người, chi tiêu hàng tháng tiết kiệm thì cũng có khoản nhỏ để cất đi. Thỉnh thoảng hàng xóm họ bí tiền em lại cho họ vay, giúp đỡ nhau thôi chứ không lời lãi gì, ai chẳng có lúc túng thiếu. (PVS, nữ, 35 tuổi, bán hoa quả) Bên cạnh những hỗ trợ kể trên, một số gia đình lại chọn cách sử dụng nguồn tiền có được đầu tư cho máy móc, thiết bị như máy cày bừa, máy xay sát, máy tuốt lúa đập lúa hay những vật tư nông nghiệp khác để làm dịch vụ. Theo họ dịch vụ này tương đối khả quan vì đáp ứng được nhu cầu phổ biến của những hộ gia đình làm nông nghiệp. Công nghiệp hoá hiện đại hoá trong quá trình lao động sản xuất là một tất yếu của sự phát triển. Đây là mục tiêu mang tầm vĩ mô của Nhà nước và cũng được nhận thức khá rõ ràng ở các địa phương và đối với mỗi người dân. Như vậy, tiền chuyển về đã góp phần xóa đói giảm nghèo cho mỗi gia đình của vùng nông thôn nơi đi, tăng thu nhập gia đình, phần nào giúp nâng cao đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội cho địa phương thông qua nhu cầu và khả năng tiêu dùng, tạo sự liên kết nông thôn-đô thị. Có thể nói, di cư đã góp phần làm giảm đi những khác biệt về kinh tế cũng như khác biệt trong lối sống đô thị-nông thôn. Sự ra đi của người lao động đã góp phần làm chuyển đổi cơ cấu lao động từ lĩnh vực lao động nông nghiệp thuần túy sang các lĩnh vực kinh tế khác. Nguồn tiền chuyển về còn đóng góp cho việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Tuy không thể có những thống kê chính xác về lượng tiền và hàng hóa do lao động di cư gửi về nông thôn trong mỗi giai đoạn cụ thể, song rõ ràng nguồn lực tài chính này đã và đang được sử dụng một cách hiệu quả, từng bước tạo nên diện mạo mới cho những vùng quê. 4. Kế hoạch tương lai và những vấn đề xã hội còn tồn tại Mặc cho những nỗ lực xóa đói giảm nghèo, chúng ta vẫn chưa thực sự tạo ra được một sức bật và tiềm năng lâu dài cho lao động nông thôn (Đặng Nguyên Anh, 2005: 17). Trong bối cảnh thu nhập ở nông thôn Việt Nam chỉ bằng một phần mức thu nhập của thành phố thì di cư lao động trợ giúp gia đình vẫn là một trong những chiến lược quan trọng. Số đông người trả lời cho rằng nếu không quyết định ra thành phố, không có công việc như hiện nay thì đến bây giờ, không biết điều kiện của gia đình họ sẽ ra sao bởi mọi thành viên đều trông mong vào số tiền gửi về hàng tháng, cũng vì vậy dù có vất vả đến mấy họ cũng cố gắng. Nam hay nữ di cư vì mục đích kinh tế đều có vai trò như nhau trong việc kiếm tiền hỗ trợ gia đình, song sự vất vả vẫn hằn sâu hơn trên đôi vai người phụ nữ bởi họ còn có trách nhiệm làm vợ, làm mẹ, trách nhiệm chăm lo cho các thành viên gia đình. Nhiều lúc căng thẳng mệt mỏi lắm. Vì công việc gia đình không hoàn tất, không chu toàn cho bố mẹ chồng, cho con. Mình ra đây thì sức ép về công việc. Những ngày mình mệt mỏi, hàng làm không được đẹp, chủ người ta cũng nói. Những lúc ốm đau không được nghỉ ngơi, nếu mình nghỉ thì con ở nhà đói, học hành bị giảm sút. Nên có ốm cũng phải nghĩ mình vẫn khỏe, cố đi làm để nuôi các con trưởng thành cho nó đỡ vất vả. Nhiều lúc nghĩ đến tương lai các con sáng sủa hơn mình, mình lại cố sức làm để quên đi mệt mỏi. Ra đi thế này ảnh Xã hội học số 2 (122), 2013 Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn hưởng đến cuộc sống gia đình hạnh phúc là điều đầu tiên. Rồi những công việc ở quê quán, hội hè, đình đám mình bỏ hết. Không còn hương vị quê hương mình. Ông bà cũng rất muốn gia đình quây quần, có bữa cơm, hay giỗ tết. Có những năm 29 Tết vẫn chưa được về, các con mong từng ngày. (PVS, nữ, 40 tuổi, công nhân) Khi được phỏng vấn về kế hoạch làm kinh tế của gia đình trong khoảng thời gian tiếp theo cũng như dự kiến sẽ làm việc ở thành phố bao lâu nữa, cả hai nhóm lao động nam và nữ đều cho biết họ chưa có kế hoạch gì cụ thể và sẽ vẫn ra thành phố làm ăn khi còn có khả năng. Thủ đô Hà Nội vẫn được xem là lựa chọn đúng đắn với những người được phỏng vấn, một điểm đến hấp dẫn, thậm chí là sự định hướng đối với thế hệ con cái họ. Sự tham gia của lao động di cư tự do đã và đang tạo ra một thị trường năng động ở các trung tâm đô thị cung cấp dịch vụ việc làm, nhóm dịch vụ mà cơ chế di dân theo kế hoạch không thể đáp ứng được (Hà Thị Phương Tiến, 2000: 178). Di cư tuy được nhìn nhận như một nhân tố thiết yếu giúp giảm nghèo và phát triển, song vẫn tồn tại nhiều mối quan ngại về các tác động tiêu cực đối với cộng đồng đô thị nơi đến, đặc biệt là với bản thân người di cư. Đây là những vấn đề vẫn cần được khai thác trong các nghiên cứu tiếp theo để có giải pháp phù hợp. Với cộng đồng đô thị nơi đến, quá trình di cư ồ ạt thiếu quản lý, sự gia tăng nhanh chóng lực lượng lao động ngoại tỉnh đã dẫn đến hiện tượng quá tải cho các công trình cơ sở hạ tầng, kỹ thuật của đô thị Hà Nội và áp lực đó ngày càng sâu sắc thêm. Hà Nội vẫn được đặc trưng bởi hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật chưa đủ năng lực phục vụ số lượng dân cư đô thị ngày càng tăng lên. Vẫn rất dễ để bắt gặp cảnh tượng lao động tự do ngồi tụ tập trò chuyện, ăn uống thậm chí ngủ tại các vỉa hè, trên đường phố để chờ việc. Sự hình thành cách khu nhà trọ giá rẻ, khu nhà nhảy dù, nhà ổ chuột, xóm liều với điều kiện vệ sinh kém, hạ tầng không đảm bảo, sinh hoạt phức tạp, thiếu ý thức, mất vệ sinh gây ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường và mĩ quan đô thị. Về sự hòa nhập với cộng đồng dân cư đô thị, số đông lao động di cư thuộc tầng lớp xã hội khác, có điều kiện kinh tế cũng như những mối quan hệ xã hội hạn hẹp. Với vị thế xã hội bất lợi về nhiều mặt nên họ thường có xu hướng nhún nhường trong giao tiếp và dường như không có nhu cầu chia sẻ về đời sống tinh thần đối với nhóm dân sở tại ngoài nhu cầu giao tiếp vì công việc. Bên cạnh đó, tính cạnh tranh và nhu cầu mưu sinh có thể sẽ ảnh hưởng tới sự cố kết trong cộng đồng của chính những lao động di cư, đặc biệt là khi họ cùng lựa chọn công việc giống nhau. Với bản thân người lao động, khi mục đích di cư là để đáp ứng nhu cầu mưu sinh của gia đình thì số tiền nhất thiết phải kiếm được hàng tháng sẽ trở thành áp lực và sức ép nặng nề. Đối với nhiều gia đình, áp lực đó đến từ những khoản nợ nần chưa thể trả, những khoản tiền đóng học cho con, tiền chữa bệnh cho những người thân, tiền đầu tư cho sản xuất kinh doanh, thậm chí là tiền ăn uống và sinh hoạt hàng ngày. Song có nhiều trường hợp khác, áp lực đó lại đến từ sự kỳ vọng của các thành viên gia đình hay của bà con xóm giềng khi biết có người ra thành phố lao động kiếm sống. Tiền kiếm được có ý nghĩa lớn lao với người lao động cũng như gia đình họ. Cuộc sống tại thành phố, chi tiêu tằn tiện để có được khoản tiền tiết kiệm hàng tháng đã khó, song việc quản lý nguồn tiền tiết kiệm lại càng khó hơn trong điều kiện ở đơn Xã hội học số 2 (122), 2013 Bản quyền thuộc Viện Xã hội học www.ios.org.vn giản, tạm bợ, sống chung và hầu như không có những nơi để cất giữ tài sản mang tính riêng tư. Như vậy, bên cạnh những cơ hội về việc làm và thu nhập, người lao động nông thôn ra thành phố dù là nam hay nữ cũng đều phải đối mặt với rất nhiều thách thức. Song, bất chấp tất cả những khó khăn đó, di cư lao động và đi làm ăn xa vẫn là một lời giải phù hợp và khả thi cho bài toán phát triển kinh tế gia đình nông thôn hiện nay và tiền chuyển về có lẽ sẽ vẫn là nguồn cung không thể thiếu cho kế hoạch phát triển kinh tế gia đình và cộng đồng nông thôn nơi đi trong tương lai gần. Tài liệu trích dẫn Đặng Nguyên Anh. 2005. Chiều cạnh giới của di dân lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tạp chí Khoa học về phụ nữ (2). Hà Thị Phương Tiến và Hà Quang Ngọc. 2000. Lao động nữ di cư tự do nông thôn, thành thị. Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. MDG Achievement Fund. 2012. Giới và tiền chuyển về của lao động di cư. UNDP. 2011. Dịch vụ xã hội phục vụ phát triển con người, Báo cáo quốc gia về phát triển con người. Vũ Tuấn Huy và cộng sự. 2004. Xu hướng gia đình hiện nay, một nghiên cứu tại tỉnh Hải Dương. Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
File đính kèm:
- vai_net_ve_nhom_lao_dong_di_cu_tu_do_nong_thon_do_thi_trong.pdf