Tổ chức phòng bị ở vùng biên giới phía Bắc dưới thời vua Minh Mệnh (1820-1840)
Tóm tắt. Trong tiến trình lịch sử dân tộc, vùng biên giới phía Bắc luôn có vị trí chiến lược
quan trọng về an ninh - quốc phòng đối với Việt Nam. Triều Nguyễn thành lập dù chọn Huế
- Phú Xuân là kinh đô của quốc gia, nhưng vẫn luôn coi Bắc Hà là “trọng trấn”. Do vậy,
chính sách cai trị đối với Bắc Hà được nhà Nguyễn đặc biệt quan tâm, trong đó, đáng chú
ý là chính sách đối với vùng biên giới phía Bắc. Bài viết này trình bày về tổ chức phòng
bị ở vùng biên giới phía Bắc dưới thời vua Minh Mệnh (1820 - 1840), trong đó chú trọng
hai nội dung chính là: xây dựng lực lượng quân đội và hệ thống thành lũy, đồn, bảo ở vùng
biên giới phía Bắc. Đây là một trong những biện pháp để bảo vệ an ninh biên giới phía Bắc
ặc biệt quan tâm đến đặt các đồn, bảo ven biên giới ở trấn (tỉnh) này. NămMinh Mệnh thứ 10 (1829), vua dụ Bộ Hộ và Bộ Binh rằng: Trấn Quảng Yên “nên tăng thêm binh huyện để đủ việc tuần phòng” và “Quảng Yên chỗ nào nên đặt thêm đồn thời bàn kĩ rồi tâu lên” [8;tr.1641]. NămMinh Mệnh thứ 10 (1829), do đồn cũ Yên Khoái thuộc tỉnh Quảng Yên thấp hẹp, quan địa phương tâu xin “mở rộng thêm, đắp bằng đất và làm trại lính, phái 100 tên lính và 2 chiếc thuyền để trú đóng” [6;tr.1641]. Lại nữa, “xã Minh Châu thuộc trang Vân Đồn ở liền bờ bể, thuyền buôn của người Tàu đi qua vẫn đóng lén ở bãi bể gần đấy, rồi ra vào hai cửa bể và chở qua hải quân Hoa Phong. Đứng ở đất mà trông đi bốn măt thời không chỗ nào là không rõ, nay xin đặt một đồn nhỏ và vát lấy những thủ hạ của hào mục ở nơi ấy ra canh giữ. Ngoài những đồn binh ở châu Vạn Ninh, Cẩm Phả, Đồng Tôn, Trí Xuyên, Vị Lai, Bắc Nham, Định Lập đều là chỗ xung yếu, nguyên trước vẫn có đồn canh, nay xin thêm lính và thủ hạ để cùng phòng giữ chỗ bờ bể, như thế chỗ đồn to” [6;tr.1641 – 1642]. Vua Minh Mệnh xét thấy cần thiết và đều cho thi hành. NămMinh Mệnh thứ 16 (1835), tháng 6, Hộ lí Tuần phủ Quảng Yên là Lê Dục Đức tâu nói: “Châu Vạn Ninh thuộc Quảng Yên có vạn Trà Cổ và vạn Mễ Sơn liền với nhà Thanh, bốn mặt đều là biển, địa thế xa cách với các tổng trong châu. Vậy xin lập riêng làm tổng An Hải, đặt 1 Cai tổng để có người trông coi” [10;tr.656]. Vua y cho. Trong Đại Nam nhất thống chí còn nhắc đến 3 bảo ở Quảng Yên được xây dựng và có lính canh phòng thời Minh Mệnh, đó là các bảo Ninh Hải, Tĩnh Hải và Thiếp Hải. Mỗi bảo có số binh lính đóng giữ khá lớn khoảng 30, 50, thậm chí là 150 người. Năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), nhà Nguyễn cho đắp bảo Ninh Hải với “chu vi 77 trượng, cao 5 thước, có 50 lính, 1 suất đội và 2 thuyền lớn để làm thế hỗ trợ với bảo Tĩnh Hải” [5;tr.51]. Cùng năm đó, vua Minh Mệnh cho đắp bảo Tĩnh Hải ở thông Vựng, huyện Nghiêu Phong – nơi có nhiều thuyền ghe người Thanh qua lại tấp nập. Bảo Tĩnh Hải có “chu vi 134 trượng, 8 thước, cao 5 thước, có 150 lính, 1 quản vệ và 3 thuyền lớn” [5;tr.51]. Đến nămMinh Mệnh thứ 21 (1840), Minh Mệnh tiếp tục cho đắp bảo Thiếp Hải với “chu vi 57 trượng 2 thước, cao 2 thước 9 tấc, có 30 thủy binh và bộ binh, 1 suất đội, 1 thuyền buôn lớn để làm việc biên phòng [5;tr.51]. Rõ ràng, việc xuống dụ cho các quan địa phương tỉnh Quảng Yên về việc cần thiết xây dựng các đồn bảo biên giới giáp với nhà Thanh và việc thực hiện đắp các bảo Ninh Hải, Tĩnh Hải, Thiếp Hải, rồi cử quân lính “làm việc biên phòng” ở đó chứng tỏ vua Minh Mệnh đặc biệt chú trọng đến việc biên phòng ở tỉnh Quảng Yên. Ở Lạng Sơn, tại 14 cửa ải thông thương với nước Thanh đều có lực lượng bảo vệ. Trong đó, với vị trí đặc biệt của hai ải Nam Quan và Du Thôn, vua Minh Mệnh đã quy định về biên chế và xếp đặt chức quan để kiểm soát và thu thuế ở hai cửa ải này. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), tháng 11, vua dụ: “Cho thổ ty ở Lạng Sơn là Chánh thủ hiệu Nguyễn Đình Minh làm Phòng ngự sứ, đóng giữ cửa Nam Quan, Phó thủ hiệu là Nguyễn Đình ái làm Phòng ngự đồng tri, giữ cửa Du Thôn” 141 Nguyễn Thị Thu Thủy [8;tr.243]. Chức quan Phòng ngự sứ và Phòng ngự đồng tri mà vua Minh Mệnh đưa ra là một biện pháp để định ngạch biên chế đối với các lực lượng đóng tại các đồn, bảo biên giới. Đại Nam nhất thống chí chép về các bảo ở Lạng Sơn gồm có bảo Quang Lang, bảo Mai Sao, bảo An Châu, bảo Suất Lễ, Bảo Thanh Mật và “các bảo đều có lính đóng đồn canh giữ” [5;tr.451]. Ở Cao Bằng, thời Gia Long có 18 đồn trấn ngự dọc biên giới, sau đó bỏ đi 3 đồn Cổ Châu, Nhượng Bạn và Nẫm Nương. Đến thời Minh Mệnh, nhà Nguyễn đặt thêm đồn Long Khê và đổi tất cả các đồn thành các bảo, đắp thành lũy, đào hào trấn thủ. Năm Minh Mệnh thứ 21 (1840), vua bỏ bớt 7 bảo chỉ còn lại 9 bảo là Cổ Lân, Gia Bằng, Trà Lĩnh, Phù Tang, Phần Hà, Trung Thảng, Bắc Khê, Na Lạn, Na Thông. Do có vị trí quan trọng nên bảo Gia Bằng do một viên Suất đội và quân tỉnh phái đến trấn giữ. Các bảo còn lại đều do thổ binh dưới sự chỉ huy của quản bảo đóng thú [3;tr.321]. Tỉnh Tuyên Quang được coi là “nơi địa đầu quan yếu”, giàu tài nguyên thiên nhiên (đặc biệt là vùng đất Tụ Long) nhưng do địa thế hiểm trở nên nhà Nguyễn chỉ đặt ở Tuyên Quang 4 bảo là bảo Tụ Long, Yên Biên, Tuyên Tĩnh, Bắc Tý [5;tr.413 – 414]. Đặc biệt, bảo Tụ Long do có xưởng vàng, đồng, bạc nên nhà nước “sai thổ quan quản lãnh và có lính phòng thủ” [5;tr.413]. Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), quan Tổng đốc là Lê Văn Đức tâu xin chọn đặt chức Quản phủ và thêm quân để đóng đồn, trách cứ phải tầm bắt những tội phạm trốn tránh ở phủ An Ninh, thuộc tỉnh Tuyên Quang. Xét thấy địa thế vùng đất này rất quan trọng – giáp với tỉnh Cao Bằng, tỉnh Thái Nguyên và gần với nước Thanh, vua đặt một chức Quản phủ [6;tr.1662]. Lại cho rằng: “địa thế xã Liêm Sơn phía trên đến đồn Vân Trung tắt qua tỉnh Tuyên Quang, tỉnh Hà Tĩnh, phía dưới đến huyện thành để định đường đi thông với nhau mà dân ở hơi đông, gặp những việc dễ vát lấy dân phu, vậy xin đắp một đồn gọi là đồn Tuyên Định mà phái binh lính canh giữ để tiếp ứng với đồn Tuyên Tĩnh và làm thanh thế cho huyện nha Để Định” [6;tr.1662], vua Minh Mệnh đã đắp đồn Tuyên Định ở xã Liêm Sơn, huyện Để Định, tỉnh Tuyên Quang. Đại Nam thực lục cũng chép sự kiện này: Năm Minh Mệnh thứ 18 (1837), tháng 5, vua “đặt chức Quản phủ phủ An Ninh tỉnh Tuyên Quang. Làm đồn Tuyên Định ở xã Niêm Sơn (thuộc huyện Để Định), địa giới hạt ấy tiếp giáp Cao Bằng, Thái Nguyên, liền với nước Thanh, rất là quan yếu” [11;tr.90 – 91]. Ở Hưng Hóa, quân đội đồn trú ở các đồn bảo như Bảo Thắng, Lô Khê, Trấn Hà, Đông Cuông, Bách Lẫm. Trong Đại Nam thực lục chép sự kiện tháng 8, năm 1833, vua Minh Mệnh đặt lệ cấp lương cho người giữ đồn bảo và thủ bảo xung yếu thuộc tỉnh Hưng Hóa thể hiện điều đó [9;tr.719]. Như vậy, cùng với việc xây dựng lực lượng quân đội vùng biên giới phía Bắc, nhà Nguyễn dưới thời vua Minh Mệnh còn chú trọng sửa chữa thành lũy, lập các đồn, bảo ở ven biên giới. Hệ thống thành lũy, đồn, bảo này đã đảm bảo cho nhà nước thường xuyên có lực lượng thường trực ở vùng biên giới phía Bắc làm chỗ dựa cho nhân dân địa phương vừa làm ăn sinh sống, vừa có khả năng đấu tranh hiệu quả với những hành động xâm lấn lãnh thổ, gây rối an ninh trật tự ở vùng biên giới. 3. Kết luận Có thể thấy, việc tổ chức phòng bị ở vùng biên giới phía Bắc dưới thời vua Minh Mệnh được thực hiện thông qua hai biện pháp chủ yếu: xây dựng lực lượng quân đội và xây dựng, củng cố thành, lũy, đồn, bảo. Bằng việc xây dựng lực lượng quân đội đông đảo là quân đội thường trực ở địa phương và sự hỗ trợ của dân binh và phái binh, quân đội ở các trấn (tỉnh) biên giới phía Bắc có thể đảm bảo cho việc duy trì an ninh quốc phòng ở vùng này. Ngoài ra, việc tu sửa và xây mới một số thành lũy và đồn, bảo ở các trấn (tỉnh) biên giới phía Bắc cũng có vai trò quan trọng trong 142 Tổ chức phòng bị ở vùng biên giới phía Bắc dưới thời vua Minh Mệnh (1820-1840) việc phòng bị ở vùng biên giới Bắc. Điều đó góp phần giúp tình hình an ninh biên giới phía Bắc dưới thời vua Minh Mệnh được giữ vững ổn định. (*) Bài viết này là kết quả của đề tài cấp Bộ Giáo dục và Đào tạo “Chính sách biên giới phía Bắc Việt Nam của triều Nguyễn và bài học đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền lãnh thổ Việt Nam hiện nay”, mã số: B2016-SPH-01. Trân trọng cảm ơn Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tài trợ cho nghiên cứu này. (**) Cảm ơn sự trợ giúp xử lí tư liệu của học viên cao học Phạm Thị Lan Phương cho bài viết này. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Thị Phương Chi, 2011. Chính sách bảo vệ vùng biển Đông Bắc Việt Nam của vua Gia Long và Minh Mạng. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9, tr.41 – 52 [2] Trần Thị Nhung, 2011. Chính sách an ninh quốc phòng của triều Nguyễn đối với vùng biên giới phía Bắc (1802 - 1858). Luận văn Thạc sỹ, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. [3] Đỗ Văn Ninh, 1993. Quân đội nhà Nguyễn. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6, tr.45 – 53 [4] Phạm Thị Lan Phương, 2015. Chính sách bảo vệ biên giới phía Bắc dưới thời vua Minh Mệnh (1820 - 1840). Khóa luận tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [5] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006. Đại Nam nhất thống chí, Tập 4. Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. [6] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2010. Minh Mệnh chính yếu, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế [7] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007. Đại Nam thực lục, Tập 1. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [8] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007. Đại Nam thực lục, Tập 2. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [9] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007. Đại Nam thực lục, Tập 3. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [10] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007. Đại Nam thực lục, Tập 4. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [11] Quốc sử quán triều Nguyễn, 2007. Đại Nam thực lục, Tập 5. Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội. [12] Nguyễn Minh Tường, 1993. Chính sách đối với dân tộc thiểu số của triều Nguyễn đầu thế kỉ XIX. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6, 271, tr.37 – 44 ABSTRACT The defensive organization in Northern border region under the reign of Minh Menh (1820 - 1840) Nguyen Thi Thu Thuy Faculty of History, Hanoi National University of Education In the process of national history, the Northern border region was always an important strategic position in security - defense of Vietnam. Although Nguyen Dynasty, in its establishment, selected Hue - Phu Xuan as the capital of the country, it always considered Bac Ha as “important region”. Therefore, the governing policies to Bac Ha was particularly concerned by Nguyen Dynasty, in which the policy to Northern border region got lots of attentions. This article discusses the defensive organization in Northern border region under the reign of Minh Menh (1820 - 1840), focusing on two main areas: building the army and the fortification system Northern border region. This is one of the measures to protect Northern border region. Keywords: The defensive organization, Nguyen dynasty’s army, Northern border, Minh Menh. 143
File đính kèm:
- to_chuc_phong_bi_o_vung_bien_gioi_phia_bac_duoi_thoi_vua_min.pdf