Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930

Tóm tắt. Hà Nam là một tỉnh thuộc châu thổ sông Hồng, nghề trồng lúa chiếm vai trò chủ

đạo trong sản xuất nông nghiệp. Sau các cuộc đánh chiếm, bình định của thực dân Pháp,

các đồn điền không ngừng mọc lên ở đây. Đến năm 1902, toàn tỉnh có 12 đồn điền, Đến

năm 1914, số lượng đồn điền giảm xuống còn 11. Tuy nhiên, diện tích đồn điền lại tăng

lên gần 10 ha; đồng thời, tên điền chủ có sự thay đổi ít nhiều, do diễn ra quá trình chuyển

nhượng. Sau Chiến tranh (1919), chính quyền thực dân khuyến khích phát triển kinh tế đồn

điền. Do vậy, diện tích đồn điền không ngừng được mở rộng. Tính đến năm 1930, toàn tỉnh

có 8 đồn điền, nhưng diện tích lại tăng lên vượt bậc (13.122 ha). Trâu, bò, ngựa, cừu, dê,

cà phê là những vật nuôi, cây trồng quan trọng và hiệu quả ở các đồn điền.

pdf7 trang | Chuyên mục: Lịch Sử Văn Hóa Việt Nam | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 212 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ch đồn điền của người Pháp không ngừng tăng lên (tăng từ 4 đồn điền lên 8 đồn điền.
Bảng 3. Đồn điền ở Hà Nam và một số tỉnh Bắc Kỳ năm 1930 [8;tr.57]
Đồn điền của người Âu Đồn điền của người Việt
Đồn điền nhượng Đồn điền nhượng Đồn điền nhượng Đồn điền nhượng
Tỉnh vĩnh viễn tạm thời vĩnh viễn tạm thời
Số
lượng
Diện
tích
(ha)
Số
lượng
Diện
tích
(ha)
Số
lượng
Diện
tích
(ha)
Số
lượng
Diện
tích
(ha)
Bắc Giang 22 30.489 11 3.021 3 1.440
Bắc Cạn
Bắc Ninh 6 387 1 5 3 353
Hà Đông 3 905 2 150
Hải Dương 13 5.718 2 309
Hà Nam 7 12.822 1 300
Hòa Bình 1 162
Hưng Yên
Kiến An 4 37 1 280 3 1.068 2 746
Lạng Sơn 3 33 2 107 1 20
Lào Cai 2 125 1 230 1 26
Nam Định 2 334
Ninh Bình 20 6.713 2 692
Phúc Yên 1 2.257
Phú Thọ 10 4.464 6 1.112 12 2.432 1 220
Quảng Yên 5 3.735 6 702 2 1.192 3 170
Sơn La
Sơn Tây 17 6.030 4 109 2 34 1 42
Thái Bình
Thái Nguyên 5 17.405 4 7.255 2 208
Tuyên Quang 20 10.711 4 5.794 2 571 3 607
Vĩnh Yên 4 1.116 2 317
Yên Bái 7 1.247 6 1.045 7 7.781 2 333
Móng Cái 48 8.29 46 708
Cao Bằng 3 797 1 83 2 11
Hà Giang 2 1.340 3 22
Lai Châu
147
Mai Thị Tuyết
Diện tích từ 2.788 ha lên 13.122 ha, trong đó xuất hiện 01 đồn điền của người Việt). Đến
năm 1945, tăng thêm 01 đồn điền, đưa tổng số đồn điền toàn tỉnh là 09 [17;tr.312].
Như vậy, Hà Nam xếp thứ 6 trên tổng số 27 tỉnh ở Bắc Kỳ về mặt số lượng đồn điền của
người Âu. Xét về diện tích đồn điền, Hà Nam xếp thứ 3, chỉ đứng sau tỉnh Bắc Giang và Thái
Nguyên. Điều này chứng tỏ tốc độ, quy mô tập trung ruộng đất vào tay người Âu ở Hà Nam là rất
cao. Trong khi đó, số lượng và diện tích đồn điền của người Âu ở nhiều tỉnh lại giảm sút. Đơn cử
như tỉnh Nam Định (liền kề với Hà Nam). Trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, người Pháp đã thiết
lập ở đây 06 đồn điền với tổng diện tích là 2648 ha [3;tr.50]. Đến năm 1930, chỉ còn 02 đồn điền
của người Âu ở Nam Định, diện tích là 334 ha (xem thêm Bảng 3). Nguyên nhân nào dẫn đến sự
khác biệt về số lượng, diện tích đồn điền giữa Hà Nam và Nam Định, cùng một số tỉnh khác?
Thứ nhất, về mặt chủ trương của chính quyền thực dân. Ngày 30/5/1930, chính quyền thuộc
địa ban hành Nghị định dừng việc nhượng đất, khẩn hoang. Tuy nhiên, Nghị định 23/7/1930 lại
cho phép người Việt được xin nhượng đất bãi ven biển để lập ra các nhóm dân cư mới, lấy từ số
dân dư thừa ở những làng ven biển. Sau văn bản này, hàng loạt đồn điền của các làng ven biển xuất
hiện ở Nam Định. Tính đến năm 1945, Nam Định có 78 đồn điền của người Việt [15;tr.510]. Tuy
nhiên, Hà Nam không phải là tỉnh ven biển, cho nên không bị tác động nhiều bởi Nghị định ngày
30/5/1930. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, chỉ có 01 đồn điền của người Việt thành lập (năm
1930) ở đây.
Thứ hai, sự giảm sút đáng kể số lượng và diện tích đồn điền của người Pháp ở Nam Định
(từ 6 đồn điền trước Thế chiến I xuống còn 02 đồn điền vào năm 1942 [9;tr.35] bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân, cơ bản là: Sau một thời gian chiếm đoạt đất đai một cách ồ ạt để thiết lập đồn điền,
quỹ đất vơi cạn dần (trừ các vùng đất hoang ven biển), cho nên kể từ khi đồn điền của Maron được
thành lập (1896), ở Nam Định không có thêm một đồn điền nào của người Pháp nữa (tính đến năm
1918). Trong khi đó, Hà Nam còn nhiều quỹ đất ở vùng trung du, miền núi chưa khai phá, đặc biệt
là huyện Lạc Thủy. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, với chính sách khuyến khích của Chính phủ,
các nhà tư bản Pháp đẩy nhanh quá trình khai phá, cướp đoạt ruộng đất thiết lập thêm các đồn điền
ở đây, điển hình là hai anh em Guillaume và Louis Borel.
Hơn nữa, mặc dù cách quản lí, sản xuất tại một số đồn điền của người Pháp ở Nam Định
khá tiến bộ, nhưng về cơ bản vẫn còn tự phát, kế hoạch sản xuất chưa thật phù hợp (đơn cử như
kế hoạch trồng café của Daurelle), dẫn đến sản xuất thua lỗ. Chính vì vậy, năm 1909, Gobert đã
nhượng toàn bộ đồn điền của mình cho công ti Bông Đông Dương với giá 25.000 đồng [11]. Năm
sau (1910), Maron cũng bán đồn điền của mình cho một số cá nhân và tập thể người Việt như:
Giáo phận Bùi Chu: 597,56 ha; Vũ Ngọc Hoánh: 1.038,6 ha; Hoàng Gia Luận: 87,19 ha; Trần
Vệ: 65,41 ha; Lưu Thế Văn: 47,37 ha; Làng Phú Lễ: 359,35 ha; Làng Phù Vân Nam: 507,67 ha
[15;tr.471]. Ngược lại, các đồn điền của người Pháp ở Hà Nam sản xuất khá hiệu quả (nổi bật sau
năm 1919). Cho nên, các điền chủ không ngừng mở rộng thêm quy mô và thành lập thêm các đồn
điền mới. Sách Địa dư tỉnh Hà Nam (1937) có ghi: “Người Âu châu khai khẩn đất hoang ở châu
Lạc Thủy, lập thành đồn điền trồng cafe... nuôi bò, cừu, dê phát đạt lắm” [5;tr.13]. Tạ Thị Thúy,
trong công trình Việc nhượng đất, khẩn hoang ở Bắc Kỳ từ 1919 đến 1945 cũng nhận định tương
tự: “Những đồn điền chuyên sử dụng nhân công ấy tập trung chủ yếu tại các tỉnh: Ninh Bình, Hà
Nam, Hòa Bình, Sơn Tây, Phú Thọ. Ở khu vực này có những đồn điền nổi tiếng thành công về cà
phê, bò sữa” [15;tr.223].
Như vậy, sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, chính sách khai thác thuộc địa của thực dân
Pháp đã làm cho đồn điền ở Hà Nam thay đổi đáng kể. Số lượng đồn điền giảm, nhưng diện tích
lại tăng lên vượt bậc. Đặc biệt, xuất hiện 01 đồn điền của người Việt. Trong khi các điền chủ người
Pháp ở Nam Định thua lỗ, phá sản hoặc chuyển nhượng cho người Việt, thì các điền chủ người
148
Đồn điền ở Hà Nam từ năm 1890 đến năm 1930
Pháp ở Hà Nam lại khá thành công. Gia súc được nuôi nhiều trong các đồn điền là trâu, bò, lợn,
ngựa, dê, cừu. Cây trồng quan trọng và cho giá trị lớn là cà phê. Chỉ khi cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới (1929 – 1933) tác động, hoạt động sản xuất tại các đồn điền mới bị đi xuống. Diện tích và
sản lượng cà phê bị sụt giảm. Năm 1930, sản lượng giảm xuống còn 169 tấn; năm 1931: 81,9 tấn
[10;tr.4], diện tích cà phê năm 1932 chỉ còn 700 ha [12;tr.23].
3. Kết luận
Hà Nam là một trong những tỉnh Bắc Kỳ bị thực dân Pháp đánh chiếm sớm nhất. Công cuộc
bình định đến đâu, đồn điền của người Pháp mọc lên đến đó. Là một tỉnh có vị trí chiến lược quân
sự, nằm cạnh kinh thành Hà Nội; đồng thời, đất đai màu mỡ, nguồn lao động dồi dào. . . Vì vậy,
các nhà tư bản người Pháp ráo riết thiết lập và không ngừng mở rộng số lượng, quy mô các đồn
điền.
Trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất, do chưa có nhiều kinh nghiệm quản lí và sản xuất (kể
từ năm 1906), một số đồn điền làm ăn thua lỗ và bắt đầu chuyển nhượng. Đến năm 1914, số lượng
đồn điền giảm xuống còn 11, nhưng diện tích lại tăng lên gần 10 ha.
Sau Chiến tranh (1919), chính quyền thực dân khuyến khích phát triển kinh tế đồn điền. Do
vậy, số lượng đồn điền ở Hà Nam mặc dù giảm, nhưng diện tích lại tăng lên vượt bậc (13.122 ha).
Trâu, bò, cừu, ngựa, dê và cà phê và vật nuôi và cây trồng chủ yếu trong các đồn điền ở Hà Nam.
Sự duy trì và không ngừng mở rộng về quy mô cây trồng, vật nuôi trong các đồn điền của người
Pháp đã chứng tỏ sự hiệu quả của nó. Đây là những gợi mở quý giá cho sản xuất kinh tế nông
nghiệp ở Hà Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] AFC. 152 Etat statistiques des concessions agricoles des provinces du Tonkin du 1er et 2 er
semester 1902. Trung tâm lưu trữ I, Hà Nội.
[2] AFC. 152-3 Etat statistiques des concessions agricoles des provinces du Tonkin du 1er et 2 er
semester 1906. Trung tâm lưu trữ I, Hà Nội
[3] Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Nam Định, 2001. Lịch sử Đảng bộ tỉnh Nam Định 1930 - 1975.
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
[4] Đinh Xuân Lâm, 1998. Lịch sử Cận – Hiện đại Việt Nam. Nxb Thế giới, Hà Nội.
[5] Dịch vụ học tập Hà Nam, 1937. Địa dư tỉnh Hà Nam. Nhà in Lê Văn Tân, Hà Nội.
[6] Dương Văn Khoa, 2011. Nông nghiệp tỉnh Nam Định (1884-1945). Luận án tiến sĩ lịch sử, Hà
Nội.
[7] G.Dauphinot, Le Tonkin en 1909, Imprierie D’extreme-orient. Lưu trữ tại Thư viện Quốc gia.
[8] RST, 075239. Rapports sur la situation agricole du Tonkin de 1930. Trung tâm lưu trữ I, Hà
Nội.
[9] RST, 075239-02. Rapports conomiques sur la situation agricole du Tonkin de 1942. Trung
tâm lưu trữ I, Hà Nội.
[10] RST, 74268. Rapport écono de l’annee 1933 de Hanam. Trung tâm lưu trữ I, Hà Nội.
[11] Residence de Nam Dinh, 003415. Statistiques de cultures de la province de Nam Dinh, 1919.
Trung tâm lưu trữ I, Hà Nội.
[12] Residence de Hanam, 1932. Monographie de la Province de Hanam (Địa chí Hà Nam). Lưu
trữ tại Thư viện Quốc gia.
[13] Trần Vũ Tài, 2007. Những chuyển biến trong kinh tế nông nghiệp Bắc Trung kỳ từ 1884 đến
1945. Luận án tiến sĩ lịch sử, Hà Nội
149
Mai Thị Tuyết
[14] Tạ Thị Thuý, 1996. Đồn điền người Pháp ở Bắc Kỳ (1884 - 1914). Nxb Thế giới, Hà Nội.
[15] Tạ Thị Thúy, 2001. Việc nhượng đất, khẩn hoang ở Bắc Kỳ từ 1919 đến 1945. Nxb Thế giới,
Hà Nội
[16] Tạ Thị Thúy, 1988. Việc thiết lập đồn điền của thực dân Pháp ở Bắc Kỳ trong giai đoạn 1884
– 1896. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1-2.
[17] Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân tỉnh Hà Nam, 2005. Địa chí Hà Nam. Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
[18] Ghi chép về tỉnh Bắc Giang của Công sứ tỉnh Bắc Giang, 1932. Lưu trữ tại Phòng Địa chí
tỉnh Bắc Giang.
ABSTRACT
The plantation in Hanam from 1890 to 1930
Mai Thi Tuyet
Faculty of Politic Theory - Civic Education, Hanoi National University of Education
Ha Nam is a province in the Red River Delta, where rice farming plays a major role in
agricultural production. After the invasions, pacification of the French colonialists, the plantations
did not stop growing here. By 1902, the whole province had 12 plantations, By 1914, the number
of plantations fell to 11. However, the area of plantations increased to nearly 10 hectares; At
the same time, the landowner name has changed more or less, due to the transfer process. After
the War (1919), the colonial government encouraged the development of the plantation economy.
Therefore, the plantation area is constantly expanding. Up to 1930, the province had 8 plantations,
but the area increased dramatically (13,122 ha). Buffaloes, cows, horses, sheep, goats, and cows
are important livestock and important crops in the plantations.
Keywords: Ha Nam, plantations, French colonialists.
150

File đính kèm:

  • pdfdon_dien_o_ha_nam_tu_nam_1890_den_nam_1930.pdf
Tài liệu liên quan