Tìm hiểu những rào cản về tính an toàn và tính ổn định trong xu hướng khởi nghiệp của doanh nhân trẻ
Tóm tắt
Bằng phương pháp nghiên cứu định tính, thông qua các cuộc phỏng vấn sâu theo lối tiếp cận
tiểu sử cá nhân - dòng chảy cuộc đời, bài viết này trình bày kết quả tìm hiểu xu hướng khởi nghiệp
của các doanh nhân trẻ thành phố Hồ Chí Minh. Với việc tập trung giải quyết câu hỏi về những
thách thức và lựa chọn của doanh nhân trẻ khi khởi nghiệp, bài viết gợi ý những nguyên nhân dẫn
đến sự lựa chọn ấy cùng những thách thức mà các doanh nhân trẻ gặp phải. Sự chọn lựa khởi
nghiệp của doanh nhân trẻ không hẳn là một quyết định theo trào lưu mà là quá trình đấu tranh với
nếp suy nghĩ truyền thống, với những bất trắc, rủi ro trong môi trường xung quanh để đi tìm đến
công việc để thỏa mãn niềm đam mê, khẳng định được giá trị riêng của mỗi cá nhân.
oài. Còn với anh bây giờ thì lâu lâu anh làm một hai ngày là anh kiếm được khoảng hai mươi tới ba chục triệu. Có nghĩa là lâu lâu sẽ có những đơn hàng như vậy và nếu mà em đi làm công ăn lương thì em sẽ không bao giờ có được những cái cơ hội như vậy. Cái đó gọi giống như chi phí rủi ro”. (Hưng, 27 tuổi, TP. HCM, trích BBPVS, ngày 3-6-2016). Với Hưng, những rủi ro trong kinh doanh là điều chắc chắn có thể xảy ra, nhưng anh vẫn quyết định làm công việc này, thay vì làm một việc gì đó nhàn nhã hơn với mức đầu tư thấp hơn và lợi nhuận cũng thấp hơn. Như đã phân tích ở trên, những người trẻ trong các câu chuyện khởi nghiệp kể trên hoàn toàn hiểu rõ những nguy cơ mà họ phải đối mặt, tuy nhiên, thái độ của họ đối với những yếu tố này là một thái độ sẵn sàng dấn thân và đương đầu với mọi khó khăn, bởi đó là quyết định và sự lựa chọn để đi tìm vị thế và ý nghĩa sống cho chính cuộc đời của họ. Giống như Phạm Văn Quang đã nhận định: “Ở thời đại của chúng ta, khi mà những quan tâm cá nhân trở nên vượt trội hơn những quan tâm cộng đồng thì chính mỗi cá nhân phải tự thiết lập cho mình một cuộc đời cố kết, nghĩa là chính cá nhân phải tự tạo ra ý nghĩa cho hiện hữu của mình... con người cá nhân đi vào một cuộc đấu tranh vị thế: vị thế không phải là cái đã được ban tặng và bắt buộc phải tuân thủ, mà mỗi cá nhân đều có tự do để thay đổi vị thế của mình, nhưng cũng có thể phải chấp nhận những nguy cơ đánh mất vị thế” (2016: 439, 440). Qua trường hợp của Hưng và Phúc, ta có thể nhận thấy, khi chọn lựa công việc này, họ đã lường trước sự không an toàn như một thách thức đối với bản thân mình nhưng họ vẫn quyết tâm chọn lựa và theo đuổi. Giống như Bùi Văn Nam Sơn nhận định, “trước những biến động không lường trước được của xã hội hậu - công nghiệp, con người không còn bị buộc phải chấp nhận những điều kiện lao động tồi tệ với đồng lương chết đói” (2012). Rõ ràng, điều kiện xã hội ngày nay kết hợp với giá trị văn hóa - tri thức mà mỗi cá nhân - đặc biệt là người trẻ thụ hưởng đã cho phép họ có nhiều sự lựa chọn hơn là một công việc an toàn tuyệt đối để đi tìm và thực hiện ước mơ của mình ở một công việc được xem là “bấp bênh” hơn nhưng không bị bó buộc trong khuôn khổ định chế hay lối mòn tư duy của xã hội truyền thống, mà lựa chọn khởi nghiệp là một ví dụ sống động. 3.2. Rào cản về tính ổn định Một thách thức khác nữa đó là sự rạn vỡ các giá trị truyền thống qua sự chối bỏ những quan niệm xã hội về tính ổn định trong công việc cũng như những ảnh hưởng từ truyền thống gia đình. Qua những câu chuyện mà các chủ doanh nghiệp trẻ chia sẻ, chúng tôi nhận thấy, đối với họ, yếu tố gia đình cũng như các quan niệm truyền thống về một công việc ổn định dường như Tạp chí Khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 2(33)-2017 93 không ảnh hưởng quá nhiều đến việc quyết định lựa chọn công việc kinh doanh cũng như quan điểm, triết lý kinh doanh của họ. Dường như có một nỗ lực nào đó nhằm vượt thoát khỏi những khung giá trị cũ - mang tính truyền thống và trong quá trình định hình những giá trị cá nhân mới. Với Phúc, tuy sinh ra trong gia đình với nhiều người làm ăn buôn bán ở chợ nhưng anh cho rằng điều này không ảnh hưởng nhiều đến việc kinh doanh của mình, bởi: “Thật ra thì tất cả những quan điểm kinh doanh, làm việc anh được học từ trong quá trình anh đi học thôi, không có bị ảnh hưởng bởi gia đình. Tại vì, gia đình anh kinh doanh nhỏ lẻ chứ không phải kinh doanh thuộc dạng tập đoàn công ty”. (Phúc, 27 tuổi, TP. HCM, trích BBPVS, ngày 6-5-2016). Hay như Hưng thì cho rằng ba mẹ anh có giới thiệu công việc với mức lương khá cao cho anh nhưng bản thân “không thích làm thuê cho người khác” nên anh ra làm riêng. Điều này cho thấy, những ảnh hưởng từ truyền thống tác động tương đối ít đến tư tưởng của người trẻ. Đặc điểm này có thể được lý giải như một hệ quả của khoảng cách thế hệ, sự khác biệt ngày càng xa giữa quan niệm sống của những thế hệ trước và thế hệ trẻ. Đây có thể xem là một hiện tượng phổ biến trong xã hội Việt Nam đương đại. Ví dụ với hiện tượng khởi nghiệp, với những bậc cha mẹ vốn tiếp thu những tư tưởng truyền thống, công việc ổn định được xem là thước đo cho sự thành công và trưởng thành của một con người chứ không phải một công việc nhiều rủi ro, phải di chuyển, xê dịch quá nhiều và chưa biết có thể tồn tại bao lâu. Trong khi đó, đối với người trẻ, tính ổn định đó không còn là vấn đề lớn bởi với việc khởi nghiệp, họ có nhiều sự lựa chọn hơn và họ có thể bằng nhiều cách khác nhau khẳng định bản thân mình, tìm thấy vị thế xã hội của mình. Về ảnh hưởng từ truyền thống và quan điểm kinh doanh của gia đình cũng tương tự. Người trẻ - vốn được tiếp thu những kiến thức hiện đại, đặc biệt là trong thời kỳ kỷ nguyên số với lượng thông tin vô cùng phong phú, đồng thời đó là những khóa học chuyên môn về kỹ năng quản lý, quản trị kinh doanh được mở khá phổ biến đã giúp họ trang bị cho mình những kỹ năng, quan điểm kinh doanh mới, phù hợp hơn với thời đại. Vì vậy, họ cho rằng những tri thức mà họ có điều kiện tiếp thu ấy sẽ phù hợp hơn với việc kinh doanh trong bối cảnh toàn cầu hóa so với những quan điểm quản lý, kinh doanh kiểu truyền thống. Tuy nhiên, bản thân những người trẻ ấy lại được giáo dục và thẩm thấu những quan điểm truyền thống từ gia đình từ khi còn bé. Những mâu thuẫn thế hệ nảy sinh. Từ đây, người trẻ không chỉ phải đấu tranh với những quan điểm cũ trong xã hội, trong gia đình mà còn trong chính bản thân mình, đấu tranh với chính những tư tưởng truyền thống mà mình đã được giáo dục từ nhỏ. Dường như họ đang trong quá trình thay đổi và chuyển biến, tự mình đi tìm con đường cho bản thân mình, vượt thoát khỏi những ràng buộc và quan điểm cũ để tìm cho mình một kiểu chủ thể tính nhất định. Hay nói một cách khác, trong bối cảnh xã hội đương đại, mỗi cá nhân luôn chịu sự giằng co giữa những giá trị cũ đã định hình và những giá trị mới nảy sinh từ thực tại cuộc sống (Nguyễn Đức Lộc, 2016: 225). Có thể nhận thấy, những quan điểm truyền thống về nghề nghiệp như sự an toàn hay tính ổn định đã dần mất đi ảnh hưởng đối với sự lựa chọn công việc của người trẻ. Môi trường xã hội ngày càng trở nên bất định với những đổi thay, tiến bộ về tư tưởng lẫn khoa học kỹ thuật vừa là một nguy cơ, cũng là cơ hội để những người trẻ nỗ lực tìm kiếm cho mình những con đường riêng. Bên cạnh đó, yếu tố toàn cầu hóa với sự phát triển vượt bậc của công nghệ thông tin giúp cho người trẻ có điều kiện tiếp xúc với nhiều nguồn tri thức mới. Điều này cũng là một tác nhân quan trọng giúp họ trang bị đầy đủ những nguồn vốn cần thiết để có đủ bản lĩnh dấn thân trên con đường còn nhiều rủi ro, bất trắc mà mình đã chọn. Ở đây, rõ ràng, những người trẻ mà chúng tôi có dịp khảo sát đã và đang tìm cách vượt thoát khỏi những hệ giá trị cũ để định Quách Thuyên Nhã Uyên Tìm hiểu những rào cản về tính an toàn và tính ổn định... 94 hình nên những giá trị riêng nhằm nhận diện bản thân mình, trong đó nổi bật là sự hình thành các giá trị khởi nghiệp, giúp đáp ứng và giải quyết các vấn đề của bản thân họ về mặt vật chất (mức lương) hay xã hội (yếu tố “vị thế”). CHÚ THÍCH VÀ TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Thực tế, từ “khởi nghiệp” ở đây không hẳn đồng nghĩa hoàn toàn với khái niệm start-up của Eric Rises (theo đó, Eric Rise định nghĩa: khởi nghiệp (startup) là “tổ chức được tạo ra nhằm cung cấp sản phẩm và dịch vụ mới trong những điều kiện ít chắc chắn nhất” (nguyên văn: “A startup is a human institution designed to deliver a new product or service under conditions of extreme uncertainty”). Bài viết “What is startup?”, website: mà có thể hiểu một cách đơn giản là những người bắt đầu thành lập công ty, doanh nghiệp và làm kinh doanh với một sản phẩm nào đó (không nhất thiết quá mới). [2] Phát biểu tại Tọa đàm khoa học về Chủ thể tính và tính chủ thể đương đại trong nghiên cứu tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU-HCM) ngày 06-05-2016. [3] Tên của nhân vật đã thay đổi để đảm bảo tính riêng tư. [4] Chi phí cơ hội (opportunity cost): được định nghĩa là “giá trị của chọn lựa thay thế tốt nhất bị bỏ qua”, nguồn: Các khái niệm cơ bản về kinh tế (Basic Economic Concepts), NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh, 2010. [5] Tên của nhân vật đã được thay đổi nhằm bảo đảm tính riêng tư. [6] A. A. Radughin (chủ biên) (2004), Văn hóa học - Những bài giảng, Viện Văn hóa Thông tin. [7] Alan Phan (2016), Góc nhìn Alan Phan - Dành tặng Doanh nhân Việt trong thế trận toàn cầu, NXB Thế giới. [8] Bùi Văn Nam Sơn (2012), “Triết luận về văn hóa, viết mừng nhà văn Nguyên Ngọc 80 tuổi: Chân thắng và chân ga”, in trong Kỷ yếu mừng sinh nhật 80 tuổi của nhà văn Nguyên Ngọc: Nguyên Ngọc vẫn trên đường xa, NXB Tri thức. [9] Castel Robert (1995), Les métamorphoses de la question sociale, Paris, Folio. [10] Francis Danvers (2005), “Những ý tưởng đón đường cho một tiếp cận nhân học hướng nghiệp”, trình bày tại Hội thảo Pháp - Á, [11] Nguyễn Đức Lộc (2016), “Du cư trong tâm tưởng và tái thiết lập lãnh thổ tâm hồn - trải nghiệm của người thiểu số về đời sống gia đình trong cộng đồng mộ đạo (Khảo sát hiện tình hôn nhân - gia đình cộng đồng Công giáo tại giáo phận Xuân Lộc)”, in trong sách Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (Tập 2) - Những người thiểu số ở đô thị: Lựa chọn, trở thành, khác biệt, NXB Tri thức, tr. 217-256 [12] Nguyễn Xuân Nghĩa (2014), “Tính hiện đại, hậu hiện đại và tôn giáo”, in trong sách Chủ nghĩa hậu hiện đại và phong trào tôn giáo mới ở Việt Nam và thế giới, NXB Đại học Quốc gia TP. HCM, tr. 46-58. [13] Nhiều tác giả (2010), Các khái niệm cơ bản về kinh tế (Basic Economic Concepts), NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh. [14] Phạm Văn Quang (2016), “Tự sự như là tiến trình nội tại hóa nghịch biện của chủ thể tính đương đại”, in trong sách Đời sống xã hội Việt Nam đương đại (Tập 2) - Những người thiểu số ở đô thị: Lựa chọn, trở thành, khác biệt, NXB Tri thức, tr. 419-470.
File đính kèm:
- tim_hieu_nhung_rao_can_ve_tinh_an_toan_va_tinh_on_dinh_trong.pdf