Tìm hiểu một số lí thuyết về tranh vẽ của trẻ em

Abstract: Studies on children’s paintings have been carried out in the world for almost three

centuries. This issue is built and approached on three basic theories, namely “Aesthetic Window

paradigm”, “Psychological mirror model”, and “Psychological and artistic models”. Based on

these theories, researchers can give analysis, arguments and explanations of children’s paintings.

pdf5 trang | Chuyên mục: Văn Hóa Mỹ Thuật | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 366 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Tìm hiểu một số lí thuyết về tranh vẽ của trẻ em, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
nh là 
sự biểu hiện ngược lại, biểu hiện ở bên trong và thông 
qua gương soi để chúng ta có thể cảm nhận được điều 
đó. Dựa vào lí thuyết này, Sully đưa ra các quan điểm 
của mình khi nghiên cứu tới tranh vẽ của trẻ em. Ông 
cho rằng “Trẻ em vẽ những gì chúng biết về chủ đề, chứ 
không phải những gì chúng thực sự thấy trước mắt”. Sự 
nhìn nhận của ông về vấn đề này rất hay, rõ ràng cái trẻ 
em nhìn thấy trước mắt nhưng không phải là thật trên 
bức tranh, điều này là vì sao vậy? Vì trẻ em không có 
đủ kiến thức về chuyên môn như người lớn để có thể 
sao chép lại các đối tượng thấy trước mắt mà thể hiện 
ra được trên giấy. Do vậy, chúng chỉ thể hiện ra được 
những gì chúng biết về chủ đề của những hình ảnh đối 
tượng đó mà thôi, từ đó chúng ta mới thấy sự bộc lộ này 
là bằng nội tâm là nhiều hơn, chứ không phải thể hiện 
bằng lí trí như ở người lớn. Và ông cũng nhấn mạnh 
thêm rằng “Khi trẻ em vẽ, chúng không quan tâm đến 
tính chính xác”. Từ câu nói này của ông, chúng ta hãy 
đặt ngược vấn đề, nếu cho trẻ em vẽ thật kĩ, thật đúng 
hay thật chính xác, thực ra chúng cũng sẽ không làm 
được. Cho nên trẻ em khi vẽ thường không quan tâm 
đến độ chính xác là một sự hiển nhiên và như vậy tranh 
vẽ của trẻ em chỉ mang tính chất khái quát, tượng trưng 
về những điều trẻ cảm nhận và thông qua ngôn ngữ hội 
họa để biểu đạt lên tranh vẽ một cách hết sức tình cờ gắn 
nhiều với yếu tố chủ quan của chủ thể sáng tác. Trong 
nghiên cứu của Sully, ông cũng đưa ra sự phát triển tranh 
vẽ của trẻ em là thông qua các giai đoạn khác nhau. Ông 
chia thành ba giai đoạn: giai đoạn “vẽ bắt chước (2-3 
tuổi), giai đoạn vẽ giản đồ theo kiểu tượng trưng (4-5 
tuổi), giai đoạn chuyển động mang tính chủ nghĩa tự 
nhiên (5-6 tuổi). Những gì ông đưa ra cũng là bước khởi 
đầu để chứng minh rằng tranh vẽ của trẻ em còn được 
biểu hiện bằng cảm xúc nội tâm, chứ không đơn thuần là 
cảm xúc biểu hiện qua hình thức bên ngoài. 
Người thứ hai đại diện cho lí thuyết “Mô hình 
gương tâm lí”, lại là một nhà nghiên cứu đặc biệt, vì ông 
có điểm xuất phát từ “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ”, chúng 
ta xem như “một sự khởi đầu giao thoa”, đó là Viktor 
Lowenfeld (1903-1960), người Áo. Ông được tiếp cận 
nghiên cứu bài bản từ lí thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm 
mĩ”, đây được coi là yếu tố truyền thống là bước khởi 
đầu, song ông không chấp nhận dừng lại ở đó mà ủng 
hộ hướng nghiên cứu mới là thiên về tâm lí trong sáng 
tạo nghệ thuật. Có nghĩa ông đã quan tâm đến yếu tố 
cảm giác, cảm nhận trong sự thúc đẩy nghệ thuật của 
trẻ em. Và từ đây, ông cũng có một điểm chung với sự 
diễn giải của Freud về nghệ thuật của trẻ em từ những 
người bị ảnh hưởng bởi các lí thuyết của ông và lĩnh 
vực trị liệu nghệ thuật bắt đầu vào những năm 1960. 
Trong nghiên cứu của mình về tranh vẽ của trẻ em, ông 
cũng có một nhận định rằng sự phát triển tranh vẽ của 
trẻ em được thể hiện bởi nhiều giai đoạn khác nhau. 
Ông phân chia thành 5 giai đoạn sau: Viết nguệch ngoạc 
(từ 2-4 tuổi); Phác họa sơ bộ (từ 4- 7 tuổi); Phác họa (từ 
7-9 tuổi); Chủ nghĩa hiện thực sơ khai trong độ tuổi (từ 
9-12 tuổi); Giai đoạn tự nhiên- giả tạo (từ 12-14 tuổi); 
Thời gian quyết định (từ 14-17 tuổi). Ở mỗi giai đoạn 
này, ông đều đưa ra những lí thuyết của mình về những 
gì được xảy xa “đằng sau hay bên trong” của những bức 
vẽ đó từ trẻ em. 
2.3. Lí thuyết “Mô hình tâm lí học và nghệ thuật” 
Mỗi một thời đại lại đánh dấu một bước phát triển 
riêng, ở lĩnh vực tranh vẽ của trẻ em cũng vậy, vào thời 
điểm của thế kỉ XX ảnh hưởng thế giới từ các trào lưu 
nghệ thuật hiện đại đã làm thay đổi một số quan niệm 
về nghệ thuật tạo hình nói chung và hội họa của trẻ em 
nói riêng. Từ hai lí thuyết “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” và 
“Mô hình gương tâm lí” đã không còn được quan tâm 
vận dụng từ những nhà nghiên cứu khi xem xét tranh vẽ 
của trẻ em, nhưng những giá trị của chúng vẫn được 
tiếp tục phát triển, kết nối với các dòng nghệ thuật khác 
có tính hiện đại hơn. Và một người đại diện cho sự kết 
nối mới này là Rudolf Arnheim (1904), người Đức. 
Ông là giáo sư tâm lí học về nghệ thuật, với cương vị 
của mình ông đã tổng hợp các phương pháp tiếp cận 
trước đó từ cả “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” và “Mô hình 
gương tâm lí” và đề xuất một lí thuyết mới gọi là “Mô 
hình tâm lí và nghệ thuật”. Đây là một nhân vật rất đặc 
biệt có sự hoàn hảo về chuyên môn, bởi ông là người 
vừa có kiến thức về tâm lí học lại vừa có kiến thức về 
hội họa, hai yếu tố này được kết hợp bổ trợ cho nhau 
trong một con người là một điều khá hiếm thấy. Vì thế, 
ông được coi là nhà lí thuyết có ảnh hưởng nhiều nhất 
vào thời điểm đó khi nghiên cứu tới tranh vẽ của trẻ em. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2017, tr 82-86 
86 
Ông đã để lại một dấu ấn không thể xóa nhòa cho thế hệ 
sau khi nhắc tới ông, quả là một nhân vật xuất chúng vì 
có quá nhiều sự khen ngợi. Trong lí thuyết của ông đưa 
ra khá nhiều quan điểm của mình về tranh vẽ của trẻ em, 
nhưng có một câu thấm thía và đúng nhất đó là “Trẻ em 
vẽ những gì chúng biết chứ không phải những gì chúng 
nhìn thấy”. Câu nói này tưởng rằng rất đơn giản khi bàn 
luận tới vấn đề tranh vẽ của trẻ em, nhưng đó là câu nói 
chứa đựng sự hiểu biết và một cách nhìn khá toàn diện 
về tranh vẽ của trẻ em vào thời điểm đó. Nếu câu nói này 
có vào thời điểm bây giờ có lẽ vẫn đúng, vì một điều hiển 
nhiên để một người có thể vẽ được đúng những sự vật có 
trong tự nhiên phải cần có kiến thức chuyên môn tạo hình 
sâu, không thì cũng phải nắm được luật phối cảnh thì mới 
chuyển tải các đối tượng nhìn thấy vào tranh vẽ được và 
điều này ở trẻ em là không thể. Do vậy, trẻ em vẽ những 
gì chúng biết là khá chính xác, từ biết ở đây được hiểu là 
cái cảm nhận của chính các em thông qua các yếu tố của 
hội họa trong bức tranh, chứ chữ “biết” ở đây không có 
nghĩa là hiểu biết. Tài năng đặc biệt của Arnheim là khả 
năng tham khảo chéo hai điểm trọng tâm khác nhau vào 
một chủ đề liên ngành toàn diện bao gồm cả quan điểm 
của “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ” và “Mô hình gương tâm 
lí”. Ông chắc chắn đã để lại một di sản mạnh mẽ và quan 
trọng cho “Tâm lí học và nghệ thuật” của mình mà tiếp 
tục thách thức cho những mô hình mang tính độc quyền 
trong cả hiện tại và tương lai. Như trên đã nói thế kỉ XX 
là giai đoạn chịu ảnh hưởng của nhiều trào lưu nghệ 
thuật, trong đó có cả vấn đề tranh vẽ của trẻ em, cũng 
được rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. 
3. Kết luận 
Theo các nhà nghiên cứu tranh trẻ em vẽ trên thế 
giới từ nhà nghiên cứu đầu tiên Rousseau (1712-1778), 
thì chúng ta đã thấy được lịch sử của nó tính đến nay đã 
hàng ba thế kỉ. So với những nghiên cứu tranh vẽ của 
người lớn thì còn khá ngắn, nhưng với những nghiên cứu 
về tranh trẻ em vẽ cũng đã có một chặng đường khá dài 
đủ làm cơ sở ban đầu đánh một dấu mốc có tính lịch sử 
và sự diễn biến phát triển cho quá trình này tới tận ngày 
nay. Nghiên cứu đến tranh trẻ em vẽ là một vấn đề rất 
phức tạp và tạo ra nhiều tranh cãi mang tính trái chiều 
nên rất khó thống nhất, song như những sự kiện đã được 
tóm lược của bài viết ngắn này cũng đã thấy khá rõ 
hướng đi của những nhà nghiên cứu khá cơ bản theo ba 
lí thuyết là “Mô hình cửa sổ thẩm mĩ”, “Mô hình gương 
tâm lí” và giao thoa kết hợp lại thành “Mô hình tâm lí 
và nghệ thuật”. Để làm được điều này những nhà 
nghiên cứu cũng mất gần hai thế kỉ mới xây dựng xong 
các mô hình trên, mặc dù khi xây dựng mô hình xong họ 
còn không được công nhận, hưởng ứng và vẫn đầy thách 
thức cho các thế hệ tiếp theo. Nhưng những mô hình 
nghiên cứu của họ sẽ giúp các nhà nghiên cứu sau này có 
cơ sở lập luận ban đầu về tranh vẽ của trẻ em. Còn nhìn ở 
góc độ mĩ thuật thì ba mô hình trên chưa có sự phân tích 
sâu sắc ở nhiều khía cạnh mang tính chuyên môn về tạo 
hình như: Màu sắc, không gian, bố cục, nhịp điệu, chất 
cảm.., trong tranh vẽ của trẻ em mà mới dừng lại ở việc 
phân tích, giải nghĩa vấn đề hình vẽ, giai đoạn, cách vẽ, 
cách nhìn... Chúng rất cần được nghiên cứu tiếp và làm 
sáng tỏ hơn nữa và như đã nói, chúng sẽ là thách thức 
cho những nhà nghiên cứu tiếp theo ở những thế kỉ này 
và thế kỉ sau. Song qua đó chúng ta có thể hiểu được 
cách nghiên cứu khá khoa học và bài bản của họ, cùng 
với sự phát triển tranh trẻ em vẽ theo sự phát triển của 
chính đứa trẻ và cũng theo lịch sử phát triển của mỗi 
thời đại khác nhau. 
Ở Việt Nam trong quá trình nghiên cứu, giảng dạy và 
dạy vẽ tranh cho trẻ em đã áp dụng được 3 lí thuyết nêu 
trên chưa? Theo khá nhiều nguồn tài liệu trong nước đã 
bàn luận tới vấn đề tranh vẽ của trẻ em để áp dụng theo 
những mô hình lí thuyết trên thì đã có nhưng việc áp dụng 
này chưa thực sự rõ ràng và đang tạo ra một sự xung đột 
trái chiều. Những điều tưởng rằng tranh vẽ của trẻ em vẽ 
rất đơn giản nhưng thực sự để hiểu biết về nó và định 
hướng đúng cho quá trình biên soạn được một bộ sách dạy 
mĩ thuật nhiều tập phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi cho trẻ 
em Việt Nam vẫn còn là một chặng đường dài phía trước. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Arnheim, R. (1974a). Art and visual perception 
(Nhận thức nghệ thuật và trực quan): A 
psychology of the creative eye. The new version. 
Berkeley: University of California Press. 
[2] Cooke, E. (1886). Art teaching and child nature 
(Giảng dạy nghệ thuật và bản chất trẻ nhỏ). 
Journal of Education, pp. 12-15. 
[3] Cowper.R. (Ed) (1884). Proceedings of the 
international conference on education (Tiến trình 
của hội nghị quốc tế về giáo dục) (Vol. 2). London: 
William Clower, pp. 24-28. 
[4] Lowenfeld,V, - Brittain, W.L (1982). Creative and 
mental growth (Sáng tạo và tăng trưởng trí tuệ) 
(7th ed). New York: Macmillan. 
[5] Rousseau, J.J. (1911). Emile (B. Foxley, Trans). 
London: Aldine Press. 
[6] Sully.J. (1888). Outlines of psychology (Phác thảo 
về tâm lí học). New York: D. Appleton. 
[7] Kellog, R. (1970). Analyzing children’s art (Phân 
tích nghệ thuật của trẻ em). Palo, CA: National.

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_mot_so_li_thuyet_ve_tranh_ve_cua_tre_em.pdf