Tiếp nhận văn học trung đại Việt Nam ở trường Trung học phổ thông trong sự tích hợp với lịch sử

Abstract: Nowadays, integrated teaching is one of the important teaching approaches which has

taken top priority in high school education. In Literature, the objectives of a lesson do not only cover

the lesson knowledge but also requires students to apply that knowledge in other subjects and related

fields. In this paper, the writer studies the acquirement of Vietnamese Medieval Literature under the

integration with History. In other words, literature acquiring theory will be applied to study medieval

literature works, the effect of historical background on the creation and languages of the works and

the connection between the past and the present through historical background.

pdf5 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 354 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung Tiếp nhận văn học trung đại Việt Nam ở trường Trung học phổ thông trong sự tích hợp với lịch sử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
hế sông núi, con người, 
theo anh (chị) yếu tố nào giữ vai trò quan trọng nhất làm 
nên chiến thắng trên sông Bạch Đằng? Câu hỏi trên đòi 
hỏi HS liên hệ đến kiến thức xã hội, văn hóa để giải quyết 
vấn đề. Nếu có thể, GV sử dụng các đoạn phim ảnh, băng 
hình những trận chiến trên sông Bạch Đằng để mở rộng 
tầm nhận thức của HS, nâng cao tính trực quan trong giờ 
Ngữ văn. Như vậy, có thể nói hình tượng sông Bạch 
Đằng trong Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu 
đem đến cho học sinh hiểu biết thêm về dòng sông lịch 
sử. Nhưng sự hiểu biết mà tác phẩm này mang lại cho 
HS không phải là kiến thức về địa lí mà là lòng yêu nước, 
niềm tự hào dân tộc trước những chiến công trên sông 
Bạch Đằng, ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, đạo 
lí nhân nghĩa của dân tộc. Tác phẩm cũng chứa đựng 
những tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò, 
vị trí của con người trong lịch sử. 
Tóm lại, VHTĐ Việt Nam luôn bám sát lịch sử dân 
tộc, phản ánh những sự kiện trọng đại liên quan đến vận 
mệnh đất nước và phản ánh số phận con người Việt Nam. 
Theo quan điểm tiếp cận đồng bộ, việc đọc hiểu tác phẩm 
văn chương trong nhà trường đòi hỏi phải làm sáng tỏ 
những yếu tố trong văn bản (cốt truyện, nhân vật, hình 
tượng, ngôn ngữ nghệ thuật...) và cả những yếu tố ngoài 
văn bản (bối cảnh lịch sử - xã hội, hoàn cảnh sáng tác,...). 
Khi tiếp nhận tác phẩm VHTĐ, HS cần tích hợp với kiến 
thức lịch sử - xã hội thích hợp để dựng lại bối cảnh lịch 
sử, thời đại của tác phẩm, thu hẹp những khoảng cách 
thẩm mĩ giữa quá khứ với hiện tại, kết nối tác phẩm văn 
học với thực tại đời sống, tạo hứng thú học tập, phát triển 
năng lực tự học, tự nghiên cứu cho HS. 
2.2.3. Bối cảnh lịch sử, xã hội - “cầu nối” từ quá khứ đến 
hiện tại 
Những tác phẩm VHTĐ Việt Nam giảng dạy trong 
trường THPT được tinh tuyển từ những viên ngọc quý 
nhất, sáng nhất trong lịch sử văn học dân tộc. Khi tiếp nhận 
VHTĐ Việt Nam, bên cạnh các yếu tố bối cảnh lịch sử, xã 
hội, thời đại tác động đến sự ra đời của tác phẩm, yếu tố 
ngôn ngữ, hình tượng nghệ thuật trong văn bản, HS cần có 
dẫn chứng từ sự tích hợp các văn bản có nội dung liên 
quan. Thông qua dẫn chứng từ sự tích hợp đó, những tác 
phẩm VHTĐ sẽ trở nên gần gũi với hiện thực cuộc sống, 
đưa văn bản văn chương từ những kí hiệu khó hiểu, xa lạ, 
trở nên thú vị, hấp dẫn và sâu sắc về nhiều mặt. 
Ví dụ: Về hình tượng người nông dân áo vải trong 
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu có 
thể tích hợp trong môn với các tác phẩm viết về hình 
tượng người nông dân áo vải và tích hợp kiến thức đời 
sống - cuộc sống, lòng yêu nước của người Nam Bộ 
trong kháng chiến chống ngoại xâm. GV có thể nêu câu 
hỏi : Trong văn học, có những tác phẩm nào đã viết về 
người nông dân áo vải? Anh/ chị hãy so sánh hình tượng 
người nông dân áo vải trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc 
với hình tượng người nông dân áo vải trong các tác 
phẩm có liên quan. HS chia sẻ với các bạn tư liệu đã sưu 
tầm viết về người nông dân áo vải như hình tượng người 
dân “manh” (dân cày lưu tán), người dân “lệ” (người tôi 
tớ, đi ở) đã được nhắc đến trong Đại cáo bình Ngô : “Yết 
can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập” (Nhân dân bốn cõi một 
nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới), hoặc hình tượng 
người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ “Mà nay áo vải cờ 
đào/Giúp dân xây dựng biết bao công trình” (Ai tư vãn). 
Từ Đại cáo Bình Ngô đến Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc với 
khoảng thời gian trên 400 năm mới lại xuất hiện người 
nông dân nghĩa sĩ trong văn học. Điều khác nhau là ở chỗ 
Đại cáo bình Ngô khẳng định vị trí người anh hùng áo 
vải còn Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc dựng tượng đài hoàn 
chỉnh về những người nông dân nghĩa sĩ. Từ hình tượng 
người nông dân nghĩa sĩ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, 
HS mở rộng liên hệ với hình tượng người nông dân áo 
vải của thời đại mới trong bài thơ Đất nước (Nguyễn 
Đình Thi): “Ôm đất nước những người áo vải/ Đã đứng 
lên thành những anh hùng/ Ngày năng đốt theo đêm mưa 
dội/ Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh”. 
Về sự hi sinh cao quý của người nông dân nghĩa sĩ, 
để HS nói lên cảm nhận về tinh thần xả thân, khí phách 
hiên ngang của người nông dân Nam bộ buổi đầu chống 
Pháp, nhằm phát triển năng lực đọc, viết, nói, nghe, năng 
lực tư duy hình tượng, cảm xúc thẩm mĩ của HS, GV có 
thể nêu vấn đề: Vì sao nói “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là 
khúc ca những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang” 
(Phạm Văn Đồng)? Bài văn tế gợi cho em cảm xúc gì về 
những người nông dân áo vải ? Tích hợp trong môn 
(những tác phẩm viết về sự hi sinh của những người nông 
dân áo vải) “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/ 
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống 
ông cha/ Ôi Đất Nước, sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng 
thấy/ Những cuộc đời đã hóa núi sông ta” (Nguyễn Khoa 
Điềm). Tích hợp văn học với đời sống bằng cách học 
thông qua trải nghiệm, GV có thể tổ chức các buổi ngoại 
khóa, tham quan bảo tàng, khu di tích. 
Tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn 
Đình Chiểu là “khúc ca của những người thất thế nhưng 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 441 (Kì 1 - 11/2018), tr 40-44 
44 
vẫn hiên ngang” (Phạm Văn Đồng), là “tượng đài nghệ 
thuật” bi tráng, bất hủ về những nghĩa sĩ nông dân Nam 
Bộ đã anh dũng ngã xuống trong cuộc chiến đấu chống 
ngoại xâm của dân tộc ở nửa cuối thế kỉ XIX. Từ quá khứ 
hào hùng đó, GV phải sử dụng thêm nhiều tư liệu lịch sử 
khác để đưa tác phẩm gắn bó hơn nữa với hiện tại, tiếp 
thêm cho tác phẩm những ý nghĩa mới trong lòng người 
đọc hôm nay. Đó có thể là tư liệu về ngôi chùa Tôn 
Thạnh: từ một địa danh trong câu “Chùa Tôn Thạnh năm 
canh ưng đóng lạnh” đến ngôi chùa Tôn Thạnh ở ấp 
Thanh Ba, xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An; 
trong chùa còn tấm bia đá khắc những dòng chữ từ năm 
1973: “Dưới mái chùa Tôn Thạnh này từ năm Kỷ Ngọ 
1859 đến năm Nhâm Tuất 1862, đại chí sĩ Nguyễn Đình 
Chiểu (1822-1888) bề ngoài mở lớp dạy học, bên trong 
lãnh đạo nghĩa binh chống Pháp, và cũng nơi đây cụ đã 
sáng tác thơ Lục Vân Tiên”. Đó cũng có thể là sự kiện 
ngày 13/04/2015, Ủy ban nhân dân tỉnh Long An đã long 
trọng tổ chức Lễ khánh thành Khu tưởng niệm nghĩa sĩ 
Cần Giuộc tại thị trấn Cần Giuộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh 
Long An [11]. 
Song song với hoạt động trải nghiệm, HS thu thập các 
hình ảnh để làm tư liệu cho bài học như ảnh sông Cần 
Giuộc, bảo tàng tỉnh Long An - nơi lưu giữ tư liệu về cuộc 
khởi nghĩa nông dân Cần Giuộc, chùa Tôn Thạnh, chợ 
Trường Bình... Hoạt động trải nghiệm và sưu tầm tư liệu 
học tập phù hợp với nội dung bài học, một mặt giúp GV 
đa dạng hóa các phương pháp dạy học, mặt khác giúp HS 
tự khám phá để xây dựng tri thức, tiếp thu bài nhanh hơn, 
để lại trong tâm trí HS dấu ấn sâu sắc về bài học. 
Văn học với tư cách là một hình thái ý thức, giúp cho 
con người nhận thức về thế giới bên ngoài và về chính 
bản thân mình. Đó cũng là con đường để HS tự hoàn 
thiện bản thân. Tích hợp không chỉ là phương tiện, công 
cụ để nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy học Ngữ văn mà 
còn là con đường để hình thành, phát triển năng lực, 
phẩm chất người học. Bối cảnh lịch sử trong VHTĐ Việt 
Nam không chỉ là bối cảnh thời đại tác phẩm ra đời mà 
bối cảnh ấy vẫn hiện diện trong cuộc sống hiện đại này. 
Vì thế, tiếp nhận VHTĐ Việt Nam trong sự tích hợp với 
lịch sử vừa mang tính khoa học vừa mang tính hiện đại, 
hướng HS tìm tòi, nghiên cứu những giá trị kết tinh của 
văn học dân tộc, ý thức trách nhiệm trong việc bảo tồn 
những di sản, ý thức độc lập dân tộc, niềm tự hào dân tộc, 
lòng căm thù giặc, ý chí chiến đấu chống ngoại xâm khi 
chủ quyền độc lập bị xâm phạm, là truyền thống “lấy đại 
nghĩa để thắng hung tàn” của người Việt Nam... 
3. Kết luận 
Dạy học tích hợp có một vị trí quan trọng trong việc 
đổi mới phương pháp dạy học ở trường phổ thông. 
Tiếp nhận VHTĐ Việt Nam trong sự tích hợp với lịch 
sử giúp HS được tiếp cận với những tác phẩm VHTĐ 
không chỉ qua các tác phẩm văn học trong sách giáo 
khoa mà còn qua những trang sử, những kết tinh của văn 
hóa truyền thống, góp phần hình thành, phát triển năng 
lực cùng những phẩm chất, tư tưởng, ý chí, tình cảm của 
HS, để mỗi bài học trở thành “cầu nối” từ kiến thức đến 
thực tiễn. 
(*) Xin cảm ơn nhóm nghiên cứu khoa học Trường 
Trung học phổ thông chuyên Nguyễn Thiện Thành đã 
hỗ trợ cho chúng tôi hoàn thành bài viết này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 
29-NQ/TW ngày 4/11/2013 về đổi mới căn bản toàn 
diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập 
quốc tế. 
[2] Hoàng Phê (2012). Từ điển tiếng Việt. NXB Từ điển 
Bách khoa. 
[3] Bùi Hiền (2001). Từ điển Giáo dục học. NXB Từ 
điển Bách khoa. 
[4] Xavier Roegiers (1996). Khoa sư phạm tích hợp hay 
làm thế nào để phát triển các năng lực ở nhà trường 
(người dịch: Đào Trọng Quang, Nguyễn Ngọc Nhị). 
NXB Giáo dục. 
[5] Đỗ Ngọc Thống (2006). Tìm hiểu chương trình và 
sách giáo khoa Ngữ văn trung học phổ thông. NXB 
Giáo dục. 
[6] Dự thảo chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ 
văn (2018). 
[7] Bộ GD-ĐT (2014). Công văn số 5555/BGDĐT-
GDTrH ngày 08/10/2014 hướng dẫn sinh hoạt 
chuyên môn về đổi mới phương pháp dạy học và 
kiểm tra, đánh giá; tổ chức và quản lí các hoạt động 
chuyên môn của trường trung học/trung tâm giáo 
dục thường xuyên qua mạng. 
[8] Phương Lựu (chủ biên, 2014). Lí luận Văn học (tập 1): 
Văn học, nhà văn, bạn đọc. NXB Đại học Sư phạm. 
[9] Ngô Đức Thọ - Hoàng Văn Lâu dịch (2017). Đại 
Việt sử kí toàn thư. NXB Văn học. 
[10] Trần Đình Sử (2005). Trần Đình Sử tuyển tập (tập 
1). NXB Giáo dục. 
[11] Nguyễn Thị Diễm Kiều (2015). Sử dụng tư liệu dạy 
học trong đổi mới phương pháp dạy học văn học 
trung đại. Tạp chí Dạy và Học ngày nay, tháng 
5/2015, tr 44-45,48. 
[12] Lã Nhâm Thìn (chủ biên, 2015). Giáo trình văn học 
trung đại Việt Nam (2 tập). NXB Giáo dục Việt Nam.

File đính kèm:

  • pdftiep_nhan_van_hoc_trung_dai_viet_nam_o_truong_trung_hoc_pho.pdf