Thuyết Việt Nam (Giai đoạn 1986-2010) viết về lịch sử và chiến tranh - Một cái nhìn khái quát
TÓM TẮT
Bài viết tập trung làm rõ các đặc điểm riêng, nổi bật của hai nhóm tiểu
thuyết Việt Nam (giai đoạn 1986-2010) viết về chiến tranh và viết về lịch sử.
Cùng lấy cảm hứng từ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ,
song tiểu thuyết sử thi và phi sử thi (thuộc nhóm viết về chiến tranh) lại có rất
nhiều khác biệt ở tư duy nghệ thuật. Tương tự, cũng viết về lịch sử trung đại Việt
Nam song tiểu thuyết thuật sử và giải lịch sử (thuộc nhóm viết về lịch sử) không
hề tương đồng về thi pháp. Tất cả đều góp phần quan trọng đa dạng hóa thể tài
nói riêng, thúc đẩy quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam nói
chung.
(quan võ) với tài năng, nhân cách, trí tuệ hơn người của nhà văn hóa lớn Nguyễn Trãi. Song song việc ca ngợi cái tâm, cái tài của đại danh nhân Ức Trai, tác giả không ngần ngại chỉ rõ sự xấu xa của giới võ biền, vừa hữu dũng mà cũng hiểm mưu; song song những câu chuyện về một nhân vật vĩ đại của lịch sử là khá nhiều những chi tiết - sự kiện rất đỗi bình dị của một con người cũng thịt cũng da; xen giữa giọng điệu ngợi ca là những tiếng thở dài não ruột; lồng ghép với cảm xúc tự hào là cái gì chua xót về nhân tình - thế thái cổ kim. Có nhiều đoạn, diện mạo bên ngoài của nhân vật bị chìm hẳn đi sau những dòng ý thức bộn bề và sâu sắc. Tác phẩm có một kiểu lặp đi lặp lại chủ đề khá độc đáo, hiếm thấy trong tiểu thuyết lịch sử. Thời gian nghệ thuật không theo tuyến tính mà đa chiều, đảo lộn như thể đó là thời gian của tâm tưởng, biểu trưng cho một thời đại còn nhiều nhiễu nhương và lòng người còn lắm gian - chuyên. Ở Sông Côn mùa lũ (Tác phẩm được xuất bản tại Hoa Kỳ từ những năm 1990, 1991 và ở Việt Nam đến nay đã được tái bản nhiều lần), Nguyễn Mộng Giác đã “vô tình” khiến hình tượng Nguyễn Huệ - dù oai lẫm, anh hùng - song lại chìm hẳn đi dưới số phận nổi nênh của An - người con gái lọt vào mắt xanh vị anh hùng áo vải từ thuở niên thiếu. Tác phẩm thu hút, quyến rũ người đọc không phải bởi đoàn binh thần tốc và bách thắng của Tây Sơn mà bằng mối tình tay ba đầy éo le giữa Nguyễn Huệ, Ngọc Hân và An. Việc cưới con gái vua Lê chỉ như là bổn phận quốc gia hoặc sự lựa chọn chính trị, còn những day dứt về mối tình đầu đẹp đẽ với An lại là niềm đau không gì bù đắp được khi con người cứ phải sống cho cái “Ta”, cho những phận sự và địa vị chứ không thể sống vì mình, cho mình. Sự trớ trêu duyên phận và nỗi đau thổn thức dai dẳng của Nguyễn Huệ cũng là những bi kịch có tính muôn thuở lúc lý trí không hòa hợp với tiếng nói con tim. Tác phẩm đã khiến Nguyễn Huệ như bị “hạ bệ” chỉ còn một nửa TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 128 trí dũng, nữa kia là những giới hạn rất thường tình; đã kiến ngai vàng và chiến công hiển hách của người anh hùng rơi ra khỏi mạch cảm hứng mà thay vào đó là tình cảm xót thương và cơ man trăn trở về tình yêu, về thân phận, về kiếp người vốn quá nhỏ bé, bọt bèo, tội nghiệp. So với những tác phẩm vừa dẫn, có lẽ Giàn thiêu (2005) của Võ Thị Hảo là “giải lịch sử” quyết liệt, triệt để hơn cả. Lịch sử thậm chí không còn cả cái vị thế là chiếc áo khoác, là vỏ bọc cho tiểu thuyết. Như Hoàng Lại Giang đã nhận xét: “Các nhân vật lịch sử không phải là chính họ mà chỉ là hóa thân cho những điều tác giả muốn nói” [12, tr.19]. Từ Lộ và kiếp sau của ông là Thần Tông hầu như chỉ sống giữa ngục tù của tăm tối hận thù, của lòng tham quyền lực, của u mê sắc dục và của cả một thứ định mệnh cơ hồ là nghiệp chướng. Khi chối bỏ tình yêu đích thực, cả Từ Lộ và Thần Tông đều không có hạnh phúc, đều sống với sự vô vị và đằng đẵng buồn đau. Quyền lực và danh vọng, việc chiến thắng của những mưu đồ hay dù thù có được trả thì con người vẫn chẳng vì thế mà hạnh phúc, viên mãn. Chỉ có tình yêu chân thành, đích thực mới sưởi ấm lòng người, tưới mát cây khô, làm cho cuộc đời đơm hoa kết trái. Ruồng rẫy tình yêu, chạy theo những dục vọng và hận thù, con người tất phải cái chịu kết cục khổ đau. Võ Thị Hảo đã “kết nối” với W. Shakespeare và Nguyễn Du từ quá khứ và với chúng ta ở thời hiện tại bằng một thông điệp rất nhiều ý nghĩa về tình yêu, lòng thù hận; về “Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”. Ngoài các tác phẩm mà theo chúng tôi là khá tiêu biểu nêu trên, tiểu thuyết giải lịch sử Việt Nam cũng cần ghi nhận những đóng góp đáng kể của Hoàng Lại Giang với Trương Vĩnh Ký, bi kịch muôn đời (2001), Trần Thu Hằng với Đàn đáy (2005), Lưu Văn Khê với Mạc Đăng Dung (2007), Kiều Thanh Tùng với Sắc đẹp khuynh thành (2008), Tất cả đã có những đóng góp quan trọng tạo sự đa dạng và hấp dẫn cho tiểu thuyết viết về lịch sử trung đại Việt Nam. Peter Gay từng khẳng định: “Hành động trần thuật về lịch sử mà không có sự phân tích thì chỉ là một điều hết sức tầm thường, sự phân tích lịch sử mà không kèm theo hành động trần thuật thì không hoàn thiện” (Dẫn theo [13, tr.126]). Thật vậy, khi đã trần thuật về lịch sử thì rất cần có những phân tích, đánh giá. Vấn đề chỉ là “sự phân tích” kia là khách quan, mang đặc điểm sử thi hay thể hiện cá tính, tư tưởng chủ quan rõ rệt của người kể chuyện. Đó cũng là tiêu chí quan trọng bậc nhất để phân biệt, để ghi nhận về giá trị của tiểu thuyết thuật sử và tiểu thuyết giải lịch sử. Không thể chiếu xét một tác phẩm thuộc nhóm này bằng các đặc điểm, “tiêu chuẩn” riêng của nhóm khác và ngược lại. Nếu cần phải so sánh giữa hai nhóm thì có thể thấy ngay rằng, tiểu thuyết giải lịch sử mang đậm chất tiểu thuyết hơn, vấn đề mà nó đặt ra TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 129 thường có tính “thời sự” nhiều hơn, nhân vật trung tâm được nó khai thác với nhiều tính chất đời tư hơn, những “can dự” của người kể chuyện trong nó rõ nét hơn, Vì vậy, nhìn dưới góc nhìn về quá trình vận động và phát triển của văn học nước nhà, tiểu thuyết giải lịch sử đang và sẽ còn chiếm ưu thế lớn ở thì tương lai. 3.Kết luận Tóm lại, trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đương đại, các tác phẩm viết về chiến tranh và lịch sử vẫn giữ một vị trí, vai trò hết sức quan trọng. Từ những câu chuyện thuộc về quá khứ, người cầm bút hướng đến hai mục tiêu chính. Thứ nhất là nói theo Lại Nguyên Ân: “chỉ bằng việc thường xuyên nhắc nhớ, ôn lại, phân tích nguồn cơn, tính đếm thiệt hại, v.v mới là phương cách tốt, chẳng những làm nguôi chấn thương mà còn đề phòng khả năng lặp lại những tai họa tương tự cho cộng đồng” [14], tức là vừa làm dịu bớt những mất mát, đau thương vừa rút ra những bài học lịch sử lớn. Thứ hai là lấy chuyện quá khứ để chiếu rọi, để ngầm so sánh và đối thoại với thời hiện đại về những vấn đề hoặc mang “tầm vóc cao cả” hoặc thuộc về số phận cá nhân, mang tính chất đời tư-cụ thể. Văn học Âu-Mỹ nói chung, tiểu thuyết nói riêng đang tiếp tục dành sự quan tâm chủ yếu cho các đề tài trinh thám, phiêu lưu, tình yêu, tệ nạn xã hội,với phong cách hậu hiện đại, với trào lưu văn học đô thị, Văn học Việt Nam đã và đang tiếp tục hội nhập, “tiệm cận” sự phát triển chung của nhân loại ở nhiều khía cạnh nhưng không vì thế mà đánh mất đi các đặc thù, bản sắc riêng (dù là ở đề tài). Một đất nước giàu truyền thống văn hóa- lịch sử; một dân tộc vừa bước qua hai cuộc kháng chiến thần thánh mà đau thương chống Thực dân, Đế quốc xâm lược không thể “khép lại quá khứ” ở nhiều phương diện, trong đó bao gồm cả sáng tạo nghệ thuật. Có thể kể ra rất nhiều chứng lý, luận điểm nhằm minh chứng cho quan điểm trên, song cũng có thể nói thật súc tích: có hiện tại và tương lai nào lại không bắt đầu từ quá khứ - một quá khứ chưa thể đóng khung, “xếp gọn” (chữ dùng của Phùng Quý Nhâm) mà còn cần những khám phá, đánh giá ở rất nhiều chiều kích khác nhau. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Phan Cự Đệ (2003), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, Nxb.Giáo dục, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Bình (2006), Một số khuynh hướng tiểu thuyết ở nước ta từ thời điểm đổi mới đến nay, Báo cáo tổng kết đề tài khoa học cấp Bộ, Nguồn: Nguvan. hnue.edu.vn. 3. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb.Giáo dục, Hà Nội. TẠP CHÍ KHOA HỌC - ĐẠI HỌC ĐỒNG NAI, SỐ 01 - 2016 ISSN 2354-1482 130 4. Ngô Vĩnh Bình (1998), “Lực lượng sáng tác văn học trẻ trong quân đội-Cái gạch nối giữa hôm qua, hôm nay và mai sau”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, (12). 5. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb.Giáo dục, Hà Nội. 6. Trần Hoàng Thiên Kim (2012), “Nhà văn Nam Hà “sung sướng được làm người con của đất nước””, Nguồn: sknc.qdnd.vn, (2/7). 7. Trần Việt Dũng (1987), “Chiến tranh khác nhau ở mỗi người”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, (6), tr.128-130. 8. P.V (2001), “Người lính và chiến tranh cách mạng-một đề tài vĩnh cửu”, Tạp chí Văn nghệ quân đội, (1). 9. Octavio Paz (1994), “Đi tìm thời hiện đại”, Tạp chí Văn học, (5). 10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1992), Sđd, Nxb.Giáo dục, Hà Nội. 11. Nguyễn Văn Dân (2012), “Tiểu thuyết Việt Nam đương đại-phác họa một số xu hướng chủ yếu”, Nguồn: Tapchinhavan.vn, (27/9). 12. Hoàng Lại Giang (2001), Trương Vĩnh Ký, bi kịch muôn đời, Nxb.Văn hóa- Thông tin, Hà Nội. 13. Trần Đình Sử (2008, chủ biên), Tự sự học, phần 2, Nxb. Đại học Sư phạm Hà Nội. 14. Lại Nguyên Ân (2006), “Về tiểu thuyết Ba người khác, Nguồn: Talawas.org, (25/12). VIETNAMESE NOVELS (1986-2010) WRITTEN ABOUT HISTORY AND WARS- AN OVERVIEW ABSTRACT This paper attempts to make clear the differences in distinctive and outstanding characteristics of two groups of Vietnamese novel (1986-2010), written about wars and history. Getting the inspiration from the patriotic wars against the French Colonists and American imperialists, however, the epics and non-epics (the group that writes about war) have significant differences in artistic thoughts. Similarly, despite the fact that both historical narrative and historical explanation with authors’ purposely distorted viewpoints (the group that wrote about history) wrote about Vietnamese medieval history, they themselves presented a great difference in prosody. Anyway, all aforementioned novels have made enormous contributions to the diversity in the style of novel in particular as well as to the promotion of the process of movement and development of Vietnamese literature in general. Key words: Epics, non-epics, historical narratives, historical explanation with authors’ purposely distorted viewpoints.
File đính kèm:
- thuyet_viet_nam_giai_doan_1986_2010_viet_ve_lich_su_va_chien.pdf