“Thơ chơi” - Từ Nguyễn Công Trứ đến Tản Đà dưới góc nhìn tư duy thơ như là một tiểu thể loại

“Play poetry” is an interesting phenomenon in the flow of Vietnamese literature not

only today but precursors from traditional literature. It was especially developed from the

literary period of the late eighteenth century to the end of the nineteenth century, till early

twentieth century by several authors. This period originated from an arrogant Nguyen

Cong Tru, a genius Cao Ba Quat, a talented and amorous Tan Da. They not only limited

themselves within satires, ironies, epigram but they were also "sophisticated poetic

players" who brought about a distinctive tone, a literary “subgenre”.

pdf7 trang | Chuyên mục: Sư Phạm Ngữ Văn | Chia sẻ: yen2110 | Lượt xem: 315 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt nội dung “Thơ chơi” - Từ Nguyễn Công Trứ đến Tản Đà dưới góc nhìn tư duy thơ như là một tiểu thể loại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút "TẢI VỀ" ở trên
ơ “phi ngã”, thật uyên bác, nhiều điển 
tích, sách vở kinh viện, thế nhưng lại không có sự chân thành hồn nhiên như nó vốn có 
trong tâm hồn nhà thơ. Đóng góp có ý nghĩa của mảng thơ chơi đối với quá trình vận 
động, phát triển của thơ ca Việt Nam chính là ở chỗ: bước đầu khẳng định vị trí của cái 
“tôi” - hình tượng trung tâm của thơ trữ tình. Với Tản Đà, nhiều nhà nghiên cứu đều có 
tiếng nói chung, đồng thuận khẳng định: Tản Đà là nhà thơ lớn đầu thế kỉ XX đã gióng 
lên khúc nhạc dạo đầu báo hiệu sự đổi mới tư duy thơ Việt Nam, đến lượt các nhà thơ 
mới sau này là những người thể nghiệm thành công. Đó là một bước phát triển mới của 
tư duy hình tượng. Thơ từ chỗ làm theo khuôn mẫu cố định, tuân thủ nghiêm ngặt theo 
luật lệ của Đường thi (vần, đối, niêm, luật) đến chỗ phóng túng, tự nhiên, đáp ứng yêu 
cầu của việc thể hiện tình cảm chân thật của nhà thơ. Những cái gì là sáo rỗng, khuôn 
mẫu, khô cứng và nhàm chán đều dần dần bị loại bỏ và được thay bằng lối diễn đạt tự
nhiên, bình dị. Từ nhà nho, ra thành thị trở thành người tiểu tư sản nghèo, trở thành nhà 
văn, viết văn để kiếm sống. Hơn ai hết Tản Đà đã ý thức được mình là người có tài và 
muốn thi thố với đời bằng chính cái tài của mình, muốn làm nên sự nghiệp lớn: “Nhà tớ
xưa nay vốn vẫn nghèo/ án văn buôn chữ kiếm tiền tiêu/ Quanh năm luống những lo 
văn ế/ Thân thế xem thua chú hát chèo”(Lo văn ế).
2.2. Thơ chơi và chơi thơ 
Chưa bao giờ loại thơ vui, thơ giải trí hay còn gọi là thơ chơi lại “lên ngôi” như bây 
giờ, phong phú và đa dạng cả về thể loại và hình thức. 
Thơ chơi - thơ vui là loại thơ mang tính chất dân gian, tính trào lộng, tính khôi hài. 
Loại thơ vui, thơ chơi mà chúng tôi muốn nói tới ở đây là những bài thơ mang tính trào lộng, 
tự trào, bông đùa, giễu nhại như kiểu “mô phỏng” những bài thơ nổi tiếng để “ chơi”, để
bông đùa: Nếu biết rằng em sp lấy chồng/ Anh về bt vịt nhổ sạch lông/ Tiết canh làm được 
vài ba đĩa/ Mượn rượu cho nguôi vết thương lòng/ Nếu biết rằng em đã lấy chồng/ Dại gì mà 
nghĩ “thế là xong”/ Email cứ viết, phone cứ gọi/ Cng có ngày em li dị chồng [4; tr.590].
Loại thơ nhạo, thơ chơi như vậy là chất xúc tác làm cho cuộc vui thêm phần rôm rả, thi vị. 
Tuy nhiên, thơ chơi cũng có nhiều dạng, nhiều loại, nhiều cấp độ khác nhau: Kiểu chơi 
mang tính dân gian truyền miệng theo một mô-tip như dạng: “Anh đi”, hoặc “hoan 
hô”; kiểu thơ chơi có tên tác giả như: Bút Tre, Phùng Quán, Hữu Ước sau này.
Chơi thơ lại là một hoạt động nhằm cho vui chứ không nhằm một mục đích nào cả. 
Chơi thơ được hiểu là một hoạt động tự do, vui chơi, tiêu khiển. Chơi được định nghĩa như 
là sự đối lập với thực tại, với cái nghiêm trọng, nghiêm túc. “Sự chơi” tạm thời đưa con 
người ta bước ra khỏi quỹ đạo của cuộc đời thường nhật với những giới hạn không - thời 
gian, những quy luật, tất yếu của nó, để thâm nhập vào một thế giới khác vừa ở trong mà 
cũng vừa ở ngoài thực tại, mang tính tự trị tương đối (có không gian - thời gian riêng, có 
những luật lệ riêng). Chữ “chơi” ở đây bao hàm cả sự chu du, thưởng ngoạn, biểu lộ tâm 
thái tự do, tự do sống với thế giới cảm xúc, tưởng tượng, mở ra không gian, thời gian, quên 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 42.2018
9
đi thực tại, được sống trong thế giới bay bổng. Khái niệm “chơi thơ” mang nội dung bao 
hàm “thơ chơi”, nhiều tác phẩm khi tác giả viết ra không nhằm lưu tên mình trong sử sách, 
mà chỉ nhằm giải tỏa tâm lí, chơi bời bay bổng, đối với họ chỉ là niềm say mê, chơi chữ
giống như các thú vui khác như: chơi tem, chơi cây cảnh, chơi hoa lan Chơi gì phụ
thuộc sở thích riêng của mỗi người, trong đó chúng tôi quan niệm, “chơi thơ” là tiểu thể
loại có sự pha trộn giữa chất trào phúng và chất trữ tình. 
Giữa “thơ chơi” và “chơi thơ” có mối quan hệ bao hàm nhau, “chơi thơ” là từ ngữ
nghĩa rộng, bao hàm từ ngữ nghĩa hẹp “thơ chơi”, trong nội hàm ấy chứa ngữ nghĩa, ngữ
pháp và tư duy thơ. 
2.3. Sự kết hợp giữa yếu tố trữ tình và yếu tố trào lộng 
Thơ (tiếng Pháp: Poesie) - hình thức sáng tác văn học phản ảnh cuộc sống, thể hiện 
những tâm trạng, những xúc cảm mạnh mẽ bằng ngôn ngữ hàm súc, giàu hình ảnh và có 
nhịp điệu: Sóng Hồng viết: “Thơ là một hình thái ngh thuật cao quý, tinh vi. Người làm 
thơ phải có tình cảm mãnh lit thể hin sự nồng cháy trong lòng. Nhưng thơ là tác phẩm 
và lí trí kết hợp một cách nhuần nhuyễn và có ngh thuật. Tình cảm và lý trí ấy được diễn 
đạt bằng những hoạt động đẹp đẽ qua những lời thơ trong sáng vang lên nhạc điu khác 
thường” [2; tr.310]. Thơ thiên về biểu hiện cảm xúc, hàm súc, cô đọng, ngôn ngữ có nhịp 
điệu là đặc trưng cơ bản của thơ, phân biệt với các thể loại tự sự như truyện, ký, tiểu 
thuyết, kịch Trào lộng, cười cợt, tiếng cười: “Một trong những cơ chế tâm lý chủ yếu tạo 
nên tiếng cười là mối kết hợp giữa sự mâu thuẫn cộng với sự hạ giá, giáng cấp” [3]. Thơ 
chơi có điểm gặp gỡ, giao thoa với một số thể loại văn học; Thơ chơi vừa là thơ trữ, lại vừa 
vượt khỏi phạm vi thơ trữ tình thông thường, theo tôi - cái khác biệt cơ bản trước hết là 
“quan nim về đối tượng phản ánh của tác phẩm”. Thơ trữ tình thuần túy coi thế giới nội 
tâm, cảm xúc, tâm trạng, tiếng nói của trái tim là đối tượng phản ánh chủ yếu. Còn tác giả
thơ chơi - chủ yếu nhằm vào đối tượng và khái quát lên một vấn đề mang ý nghĩa chơi vui, 
giải trí, giải thiêng. Sự khác biệt thứ hai, đó là quan niệm về đối tượng thưởng thức. Thơ 
trữ tình đến với người đọc bởi những “rung động”, “đồng cảm”, “đồng điệu” nhằm được 
giãi bày, chia sẻ gửi gắm tâm tư, tình cảm, cảm xúc thì đối tượng của thơ chơi phức tạp 
hơn, trước hết viết cho người “đồng minh” để cùng nhìn nhận, đánh giá, tán thưởng vào 
cái nhìn sắc sảo, thông minh, hóm hỉnh; mặt khác viết cho tiếng cười với đối tượng chủ
yếu là những kẻ “bất đồng”: về quan niệm sống, quan niệm thẩm mĩ, chí hướng, tư cách 
đạo đức, lối sống, thói quen sinh hoạt đời thường
Thơ chơi nếu xét trong một phạm vi hẹp, chứa đựng thái độ, quan điểm phản kháng 
trước những điều xấu xa, trêu ghẹo, tếu táo cho vui. Căn cứ trên thực tế thơ chơi từ
Nguyễn Công Trứ đến Tản Đà dưới góc nhìn tư duy nghệ thuật, đặc biệt trong các sáng tác 
của Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Tú Xương, Tản Đà Chúng tôi quan niệm: thơ chơi 
bao hàm nhiều cung bậc khác nhau của sự chơi, làm thơ chơi nhằm phản kháng, phúng
thích chính trị xã hội cho đến mục đích giải trí, giải thoát năng lượng hoặc chứng tỏ sự tự
do về tinh thần, từ sự chơi “đậm chất chơi” đến cả những thú chơi hơn đời, hơn người, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 42.2018
10
ngông nghênh, ngạo nghễ hiện diện trên mỗi câu chữ. Với định nghĩa, tính chất “thơ chơi” 
rộng như trên, có thể đưa ra các tiêu chí nhận diện cơ bản về thơ chơi trên 3 phương diện: 
Thứ nhất, thơ chơi có ý nghĩa vui chơi, giải trí, giải thoát con người khỏi trạng thái trang 
nghiêm, quan phương thông thường. Thứ hai, tiếng cười được bộc lộ qua các kỹ thuật gây 
cười khác nhau, mà trong đó nổi bật là kỹ thuật nhào nặn biến đổi một cách sáng tạo, bất 
ngờ mối quan hệ - tương quan tỉ lệ giữa các chất liệu lấy từ hiện thực đời sống, nói cách 
khác là kỹ thuật “đắp mặt nạ” cho đối tượng khiến người thưởng thức bật cười khoái trá 
bởi vẫn phát hiện được đối tượng “giấu” đằng sau cái “mặt nạ” méo mó, kỳ quặc tưởng 
như không thể nhận ra nhưng ở mức độ nhẹ nhàng hơn trào phúng. Thứ ba, đối với thơ 
chơi, các kỹ thuật chơi thơ luôn gắn liền với các thủ pháp ngôn ngữ nghệ thuật như: chơi 
chữ, phóng đại (ngoa dụ), nói mỉa, vật hóa
3. KẾT LUẬN
Nhìn từ góc độ lý luận và mĩ học có thể thấy rằng: mối quan hệ giữa “cái hài” và 
“cái bi” trong tác phẩm văn học là mối quan hệ có tính chất nhân quả tạo nên giá trị nhân 
bản cho tác phẩm, tạo ra đỉnh cao các trạng thái: cái cũ, cái mới lẫn lộn, không tiêu diệt lẫn 
nhau mà nâng đỡ nhau cùng lớn mạnh, cái bi ẩn sâu làm thi vị, mạnh mẽ hơn cái hài, cái 
chơi trong sự thưởng thức của công chúng. Từ góc độ tư duy nghệ thuật, chúng tôi tìm
hiểu, nghiên cứu thơ chơi như một tiểu thể loại. Thơ chơi ở đây không chỉ là sự giải trí đơn 
thuần, mua vui mà tính chất “chơi” thể hiện ở góc độ đứng cao hơn đời, cao hơn người để
nắm được quy luật biến thiên của cuộc sống, vận hành “cỗ máy nhân sinh” hướng đến 
chân - thiện - mĩ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] I U.Bôrép (1978), Những phạm tr mĩ học cơ bản (Hoàng Xuân Nhị dịch), 
Trường Đại học Tổng Hợp xuất bản.
[2] Đỗ Đức Hiểu (Chủ biên) (2004), Từ điển văn học, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
[3] Trần Thị Hoa Lê (2007), Thơ trào phúng Vit Nam nửa sau thế kỉ XIX - Nửa 
đầu thế kỉ XX ( Din mạo và đặc điểm), Luận án Tiến sĩ Trường Đại học Sư 
phạm Hà Nội, Hà Nội.
[4] Nguyễn Bá Thành (2011), Tư duy thơ Vit Nam hin đại, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
[5] Trần Ngọc Vương (2008), Loại hình học tác giả văn học nhà nho tài tử và văn 
học Vit Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
[6] Trần Ngọc Vương (1999), Văn học Vit Nam dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb.
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
[7] Trần Ngọc Vương (2015), Văn học Vit Nam thế kỉ X đến thế kỉ XIX (những vấn 
đề lý luận và lịch sử), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
TẠP CHÍ KHOA HỌC TRƢỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC - SỐ 42.2018
11
“PLAY POEMS” - FROM NGUYEN CONG TRU
TO TAN DA - A POETIC SUBGENRE
Le Thi Dung
ABSTRACT
“Play poetry” is an interesting phenomenon in the flow of Vietnamese literature not 
only today but precursors from traditional literature. It was especially developed from the 
literary period of the late eighteenth century to the end of the nineteenth century, till early 
twentieth century by several authors. This period originated from an arrogant Nguyen 
Cong Tru, a genius Cao Ba Quat, a talented and amorous Tan Da. They not only limited 
themselves within satires, ironies, epigram but they were also "sophisticated poetic 
players" who brought about a distinctive tone, a literary “subgenre”.
Keywords: Play poetry, reading, Nguyen Cong Tru’s play poetry, Tan Da’s play
poetry.

File đính kèm:

  • pdftho_choi_tu_nguyen_cong_tru_den_tan_da_duoi_goc_nhin_tu_duy.pdf