Thách thức cho cơ quan thuế Việt Nam khi gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN
Bài viết dựa trên góc độ của lý thuyết hội nhập và lý thuyết về thuế quốc tế đánh giá và phân tích những thách thức trong ngắn hạn và dài hạn cho cơ quan thuế VN trước thềm ra đời và phát triển của Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC) từ 2015. Kết quả phân tích cho thấy VN về cơ bản cơ cấu
thuế các quốc gia ASEAN khá tương đồng nhau. Tuy nhiên, trên cơ sở so sánh các
đề xuất của OECD (2008, 2013) cho việc xây dựng mô hình quản lý thuế tiên tiến
đồng thời phân tích tương quan về năng lực quản lý thuế giữa các quốc gia trong
khối, Singapore được đánh giá là thành viên đã xây dựng những khuôn khổ quản lý
thuế đạt trình độ tiên tiến hơn. Chính vì vậy, để chuẩn bị cho việc hội nhập mang lại
những lợi ích cho quốc gia, VN cần có những bước chuẩn bị nghiêm túc và dài hạn
cho việc khẳng định thế mạnh và vị thế riêng của mình trong cộng đồng.
hiệp phải chịu. Thuế khác bao gồm các khoản phải nộp khác của doanh nghiệp, kể cả các khoản phí, .. khẩu, nhập khẩu đến tăng trưởng kinh tế các quốc gia ASEAN. Thương mại nội bộ ASEAN 2012 chiếm khoảng 30% tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu của khối (Ban thư ký ASEAN), và tỷ trọng này có xu hướng gia tăng nhằm đảm bảo sự phát triển vững mạnh của khối. Điều này đặt ra áp lực rất lớn cho công tác quản lý thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu ở nhiều góc độ: ở góc độ hỗ trợ và dịch vụ cung ứng cho người nộp thuế, đó là vấn đề thủ tục khai báo hải quan, thời gian thông quan hàng hóa, việc phân luồng và kiểm tra sau thông quan, hệ thống cửa khẩu hải quan và năng suất hoạt động các bộ phận có liên quan, việc phát triển các dịch vụ logistic hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu; ở góc độ phát huy hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý, giảm thiểu tình trạng gian lận là việc kiểm tra trị giá tính thuế hàng nhập khẩu của các giao dịch, nhất là các giao dịch liên kết giữa các thành viên trong khối được dự đoán là gia tăng mạnh khi cộng đồng Kinh tế ASEAN được thành lập và phát triển. Bảng 1: So sánh chính sách thuế các nước ASEAN Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Nghiên Cứu & Trao Đổi 31 Quản lý thuế trực thu (thuế thu nhập doanh nghiệp và thuế thu nhập cá nhân) đối với các nguồn thu nhập có yếu tố nước ngoài: Thuế thu nhập doanh nghiệp như phân tích ở phần trên là khoản thu đóng góp đáng kể vào GDP của mỗi nước. Trước áp lực giảm sút nguồn thu từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, các khoản thuế trực thu trở thành mối quan tâm của cơ quan thuế các nước nhằm đảm bảo cân đối nguồn thu. Việc xác định thu nhập tính thuế của đối tượng cư trú, cơ chế khấu trừ thuế được quy định trong các hiệp định tránh đánh thuế hai lần, các vấn đề đáng lo ngại trong quản lý thuế quốc tế và tránh đánh trùng thuế đối với các nguồn thu nhập, quản lý giá chuyển giao giữa các công ty đa quốc gia, việc định giá của các giao dịch liên quan đến tiền bản quyền và sở hữu trí tuệ, vấn đề chuyển thu nhập giữa các quốc gia; quản lý thuế đối với các giao dịch mua bán và sáp nhập tất cả tạo nên áp lực nặng nề cho hệ thống quản lý thuế VN vốn đã khá mỏng về cơ sở dữ liệu và trình độ công nghệ thông tin ứng dụng trong các khâu quản lý. Nội dung cơ bản của AEC là di chuyển hàng hóa tự do, di chuyển dịch vụ tự do, di chuyển đầu tư tự do, di chuyển vốn tự do, di chuyển lao động có kỹ năng tự do, đẩy mạnh thương mại điện tử,...Điều này đồng nghĩa với việc các cơ quan chức năng của VN phải quản lý và kiểm soát được các vấn đề đa phương. Bản kế hoạch chi tiết của AEC về thuế khóa đã nhấn mạnh chủ trương hoàn thiện hiệp định song phương về tránh đánh thuế 2 lần giữa tất cả các quốc gia thành viên. Yêu cầu về việc không ngừng nâng cao năng lực của đội ngũ quản lý thuế và hoàn thiện cơ chế hoạt động: Trong giai đoạn 2012 – 2013 và 2013 – 2014, Singapore có vị trí xếp hạng cao nhất (thứ hai liên tiếp trong 2 năm trong danh sách 148 quốc gia tham gia trong mẫu), VN nằm trong nhóm các nước có năng lực cạnh tranh toàn cầu khá thấp (tương ứng 2 năm lần lượt là thứ 75, 70 (Diễn đàn kinh tế thế giới WEF). Điều này cho thấy môi trường, thể chế và năng lực quản lý giữa các quốc gia trong khối tại thời điểm xuất phát cho AEC thiếu tương đồng đáng kể, thậm chí là khập khễnh. Năm 2008, OECD đề xuất phương thức quản lý thuế tiên tiến – the Enhanced Relationships - dựa trên nền tảng sự tin tưởng lẫn nhau giữa cơ quan quản lý thuế, người nộp thuế lớn và các trung gian thuế (các đại lý thuế) đồng thời có sự hỗ trợ minh bạch thông tin từ phía các ngân hàng. Năm 2013, OECD đề xuất khuôn khổ quản lý thuế tiến bộ hơn nữa, chuyển từ việc tăng cường mối quan hệ giữa các bên sang mối quan hệ hợp tác lẫn nhau cùng phát triển. Trong bảng đánh giá năm 2013 của OECD, chỉ có Singapore là quốc gia tiến bộ nhất trong các nước ASEAN xây dựng một khuôn khổ chiến lược kiểm soát tuân thủ nhằm tối đa hóa việc tuân thủ thuế của người nộp thuế đồng thời Singapore cũng xây dựng riêng khuôn khổ giao dịch với người nộp thuế với tư cách là khách hàng thực thụ của người nộp thuế. Khuôn khổ hoạt động mà cơ quan thuế Singapore thực thi được OECD đánh giá cao và thật sự dựa trên việc quản lý tuân thủ. Những năm qua VN đã chuyển sang chiến lược quản lý thuế và kiểm tra, thanh tra thuế dựa trên việc quản lý rủi ro, tuy nhiên chiến lược kiểm soát tuân thủ của chúng ta chưa thật sự rõ ràng và sắc nét. Điều này tạo áp lực lớn cho công tác quản lý thuế cho VN khi gia nhập AEC là việc người nộp thuế lựa chọn đăng ký thuế tại Singapore hay bất kỳ quốc gia nào trong khối với cơ chế quản lý thuế hỗ trợ tích cực cho người nộp thuế hay họ sẽ chọn đăng ký thuế tại cơ quan thuế VN? Việc phân chia quyền thu thuế giữa các chính phủ như thế nào để không ảnh hưởng đáng kể đến nguồn thu của mỗi quốc gia? PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 26 (36) - Tháng 01 - 02/2016 Nghiên Cứu & Trao Đổi 32 Yêu cầu về hệ thống cơ sở dữ liệu và công nghệ thông tin trong quản lý thuế: Năm 2009, ngành Thuế bắt đầu xây dựng hệ thống quản lý thuế thu nhập cá nhân (TNCN) sử dụng giải pháp có sẵn của SAP (hãng phần mềm của Đức) đã được áp dụng tại nhiều nước tiên tiến trên thế giới. Bên cạnh đó, hệ thống ứng dụng quản lý thuế tập trung (viết tắt là TMS – Tax Managment System) cũng được Tổng cục Thuế xây dựng theo giải pháp SAP, trên cơ sở mở rộng hệ thống quản lý thuế TNCN (QLT_TNCN) để quản lý các loại thuế còn lại (giá trị gia tăng (GTGT), thu nhập doanh nghiệp (TNDN), tiêu thụ đặc biệt (TTĐB)...). Hệ thống TMS thay thế 16 ứng dụng hỗ trợ công tác quản lý thuế đang vận hành và triển khai phân tán tại 3 cấp của ngành Thuế (Tổng cục, Cục Thuế và Chi cục Thuế), đáp ứng toàn bộ các khâu xử lý dữ liệu cho các quy trình nghiệp vụ: Đăng ký thuế, quản lý hồ sơ thuế, quản lý và xử lý kê khai/quyết toán thuế, kế toán thuế nội địa, quản lý nợ, sổ sách, báo cáo phân tích, đánh giá và có khả năng kết nối với các dịch vụ hỗ trợ người nộp thuế (NNT) trong thực hiện các thủ tục về thuế4. Tuy nhiên, hệ thống công nghệ này chỉ hỗ trợ thay thế cho việc lưu trữ hồ sơ giấy trước khi áp dụng kê khai thuế điện tử. Bằng chứng là hàng loạt sai phạm liên quan đến chuyển giá của các công ty đa quốc gia thời gian vừa qua cơ quan thuế VN không có đủ bằng chứng về mặt dữ liệu thuyết phục nhằm xử lý triệt để vấn đề này. Hệ thống cơ sở dữ liệu 4 h t t p : / / w w w. m o f . g o v. v n / p o r t a l / p a g e / p o r t a l / m o f _ v n / 1 5 3 9 7 8 1 ? p e r s _ id=2177092&item_id=149140416&p_ details=1 về giá thị trường của các giao dịch độc lập hiện đang vẫn là áp lực rất lớn cho công tác quản lý thuế quốc tế quốc gia và khu vực. 4.3. Kết luận và một số kiến nghị hoàn thiện hệ thống thuế cho quá trình hội nhập AEC Hội nhập là xu hướng tất yếu cho sự phát triển hiện tại. Tuy nhiên việc cải cách thể chế, chính sách và xây dựng, thực thi các khuôn khổ quản lý thuế tiên tiến cũng như đầu tư hạ tầng, hệ thống dữ liệu quản lý cho quá trình hội nhập buộc cơ quan thuế và chính phủ cần có cái nhìn nghiêm túc và lộ trình điều chỉnh phù hợp trong ngắn hạn và dài hạn. Trước mắt, cơ quan Thuế VN cần quán triệt rõ tinh thần của hội nhập và những yêu cầu đặt ra trong quản lý thuế hiện đại cho các viên chức ngành thuế; song hành thiết lập các khuôn khổ hợp tác giữa cơ quan thuế, người nộp thuế, các trung gian thuế, hệ thống ngân hàng,...trên tinh thần tạo thuận lợi nhất cho người nộp thuế; chuyển hẳn từ cách tiếp cận kiểm soát, thiếu tin cậy lẫn trong quản lý sang hợp tác cùng có lợi trên nguyên tắc tuân thủ tự nguyện và tạo điều kiện cho tuân thủ; xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu đồng bộ cho quản lý và dữ liệu thống kê lịch sử tuân thủ thuế của người nộp thuế để có phương thức quản lý thuế phù hợp với từng mức độ tuân thủ thuế. Riêng phương diện quản lý thuế quốc tế, VN cần hợp tác tích cực với các quốc gia trong khối để tăng cường công tác quản lý song phương, đa phương, hỗ trợ xây dựng các chương trình quản lý tích hợp thông tin người nộp thuế. Trong dài hạn, nhằm đảm bảo sự phát triển vững mạnh của từng quốc gia thành viên cũng như sự phát triển chung của cả cộng đồng, hợp tác toàn diện trên mọi lĩnh vực, tăng cường minh bạch thông tin quản lý và hệ thống giám sát là giải pháp ưu tiên hàng đầu. 4.4. Hạn chế của bài viết Các dữ liệu thống kê về thuế vốn dĩ là một góc khuất trong các nghiên cứu thế giới, riêng trường hợp ASEAN lại càng trở nên khó khăn hơn khi số liệu không đầy đủ và không đồng nhất, vì vậy trong phạm vi giới hạn cho phép, tác giả chỉ có thể phân tích sơ bộ những nội dung có liên quan đến thuế nhằm giúp VN tiên liệu những tình huống khó khăn khi gia nhập và phát triển trong cộng đồngl TÀI LIỆU THAM KHẢO thue-khi-viet-nam-con-mot-minh-mot- san-20141120114355994.htm h t t p : / / w w w. i c t d . a c / e n / a b o u t - i c t d - government-revenue-dataset ht tp : / /www.mof.gov.vn/por ta l /page/ p o r t a l / m o f _ v n / 1 5 3 9 7 8 1 ? p e r s _ id=2177092&item_id=149140416&p_ details=1 cao-nang-luc-canh-tranh-quoc-gia-qua- lang-kinh-pci-a268.html OECD. (2008). Study into the role of Tax Intermediaries. OECD. Paris. 2008. OECD. (2010). “Growth-oriented Tax Policy Reform Recommendations”, in Tax Policy Reform and Economic Growth. OECD Publishing. OECD. (2013). Co-operative compliance: A Framwork from enhanced relationship to co-operative compliance, http:// www.oecd.org/tax/administration/co- operative-compliance.htm. Vito Tanzi & Howell Zee. (2001). Tax Policy for Developing Countries, in Economic Issues, No. 27. IMF Publishing.
File đính kèm:
- thach_thuc_cho_co_quan_thue_viet_nam_khi_gia_nhap_cong_dong.pdf