Sử dụng điển cố, điển tích trong thơ Trịnh Hoài Đức
TÓM TẮT
Sử dụng điển tích, điển cố là một trong những thư pháp quen thuộc của thơ ca trung
đại. Cũng như nhiều nhà thơ Việt Nam khác, Trịnh Hoài Đức sử dụng khá thành công hình
thức nghệ thuật này. Trong tác phẩm Gia Định tam thập cảnh, ông đã sử dụng nhiều điển
tích, điển cố có nguồn gốc từ Trung Quốc. Điều đó đã góp phần làm cho tác phẩm thêm
giàu hình ảnh, hàm súc và cao nhã.
g sáng tạo và tính độc lập của mình về tư tưởng, nghệ thuật trong sáng tác, đặc biệt là nghệ thuật sử dụng điển cố. 2. Trịnh Hoài Đức (1765 – 1825) tự Chỉ Sơn, hiệu Cấn Trai, là một nhà thơ, nhà văn và là một sử gia nổi tiếng của Việt Nam trong thế kỉ XVIII. Quê gốc của ông ở tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Ông nội của Trịnh Hoài Đức làm quan dưới triều Minh, sau khi triều Minh sụp đổ, ông đưa cả gia đình sang Việt Nam cư ngụ tại dinh Trấn Biên (nay là Biên Hoà, Tỉnh Đồng Nai). Trịnh Hoài Đức học rộng tài cao, đỗ đạt làm quan, là một công thần của triều Nguyễn, đã giúp cho vua Gia Long rất nhiều về các phương diện ngoại giao, chính trị và kinh tế. Bộ Gia Định thành thông chí là một công trình có giá trị cao về lịch sử, địa lí và văn hoá của miền Nam bộ. Nội dung tập sách ghi chép đầy đủ và tỉ mỉ về núi sông, khí hậu, việc thành lập các trấn, thành trì, cũng như về phong tục tập quán, tính cách và sinh hoạt của người dân Nam Bộ. Riêng Gia Định tam thập cảnh trong Gia Định thành không khí, tác giả Trịnh Hoài Đức sử dụng ba mươi sáu điển cố trong 18/30 bài thơ. Đó là các bài: Gia Định kim thành, Hoa Phong cổ luỹ Mai khâu túc hạc, Liên chiểu miên âu, Phù Gia điếu nguyệt, Lâu Viên giác liệp Điển cố xuất hiện với tần suất khá nhiều trong Gia Định tam thập cảnh, chủ yếu đề cập tới những nhân vật nổi tiếng, các nội dung trích từ Kinh thi và các tích xưa như: Lâm Bô - ẩn sĩ đời Tống, Nghiêm Lăng thời Đông Hán, bà Hậu phi - vợ vua Văn Vương nhà Hán, Ngũ Đinh - vị thần thời khai thiên lập địa, vua Phục Hy và Hoàng Đế - thời cổ của Trung Hoa, nhà thơ Khuất Nguyên, Thiệu Bình đời Tống Dựa vào điển cố, có những lúc tác giả đưa người đọc miên man bên dòng suy tư về những chuyện trong quá khứ, về một tình bạn thuở hàn vi như Nghiêm Quang và Hán Quang Vũ chẳng hạn: Tuý ngoạ thương giang tầm vãng sự, Nghiêm Lăng tằng thị bố y giao. (Phù Gia điếu nguyệt) (Say nằm nơi dòng sông lạnh mà ôn lại việc đã qua, Nghiêm Lăng xưa từng là bạn áo vải). Cũng có lúc tác giả lại mang niềm thương cảm đến cho người đọc cũng từ những nhân vật, những con người của quá 29 khứ. Chẳng hạn trong bài Quang Hoá hồ già, chỉ một hồi kèn vang lên nhưng đã thúc giục nhà thơ trở về với biết bao kí ức. Tiếng kèn nối liền tình hữu nghị thắm thiết giữa hai đất nước Việt – Miên (Campuchia). Tiếng kèn làm lay động đến cả không gian, làm cho mây thu cũng ngập ngừng bay. Nơi miền biên ải xa xôi ấy, người lính chợt buồn theo cỏ mới, để rồi như thấu hiểu cái chết uất ức của Lí Tướng, cái thần trong khúc đàn ai oán của Chiêu Quân mà nhập điệu cùng nhau. Bài thơ tưởng chừng như một lời chia sẻ nỗi buồn với những người ở tận phương trời Trung Hoa nhưng thật ra là lời an ủi, cảm thông với vất vả, thiệt thòi của những người lính đang canh gác nơi miền biên ải của nước Việt thân yêu Đặc biệt Liên chiểu miên âu có đến 4 điển cố gồm: phù tung (theo Thi nghĩa sớ), điển vong cơ (trong điển âu lộ vong cơ, điển cựu minh (trong điển âu minh), thu tang thổ (mượn ý ở bài Xi hiệu trong Kinh thi). Nếu vong cơ trong điển “âu lộ vong cơ” được hiểu theo nghĩa bạn với con âu, con cò mà quên việc đời (tức chỉ người ở ẩn) và cựu minh do điển “âu minh” cũng chỉ người ở ẩn chốn mây nước như có ước hẹn làm bạn với chim âu thì đích thực bài thơ chính là lời kí thác tâm sự của tác giả. Cái tài của nhà thơ ở chỗ, ông viết về một hình ảnh bình thường nhưng đằng sau nó là một sức công phá to lớn. Dẫu có quy ẩn hay không thì người hiền sĩ ấy luôn giữ phẩm giá và nhân cách trong sạch của mình. Liên chiểu miên âu vừa có cái trang nhã, vừa mang chất phong lưu thoát tục của người hiền sĩ là vậy: Âm âm hạm đạm thủy trung tiêu, Dục bãi sa âu liễm ngọc kiều () Vong cơ nhàn khách chẩm hương miêu. (Hoa sen vươn cao lên trong nước, bóng râm mát, Chim le le tắm xong thu lông ngọc lại () Quên đời, khách nhàn gối đầu vào búp thơm). Bốn bài thơ khác có đến 3 điển cố. Trong đó, bài Gia Định kim thành có: Kim thành (do chữ Kim thành thang trì), cửu ngũ long phi (là hào 95 trong quẻ Càn sách Chu Dịch, hào từ là Long phi tại thiên), tam thiên hổ bái (do chữ hổ bôn tam thiên); Trong bài Thuỳ Vân quất phố có: Đắc nhĩ lương nô lũ bất hiềm (do điển Lí Xung trồng quít trong Tương Dương kí), Trung phẫn (chỉ nhà thơ Khuất Nguyên), Hiếu tâm trường cảm bội hương điềm (do tích số 13 trong Nhị thập tứ hiếu); Trong bài Mĩ Tho dạ vũ có: Trạc anh (dựa vào Ngư phủ từ của Khuất Nguyên), Hòe thị (theo sách Tam phụ hoàng đồ), Tang Lâm (dựa vào tích đời Thành Thang nhà Thương) Những điển cố có mặt trong Gia Định tam thập cảnh nhiều nhất là điển cố về các nhân vật nổi tiếng, các tích về việc xây dựng đất nước, về nền thái bình thịnh trị Đó là tâm trạng của người vừa tham gia chiến tranh vừa tự hào với chiến công đạt được, đồng thời được thừa hưởng những ân phúc lớn lao của triều đình ban tặng. Vì vậy, Gia Định tam thập cảnh lúc nào cũng mang âm hưởng của tinh thần lạc quan, của người thành đạt trong cuộc đời. Hơn cả, đó là lòng yêu cuộc sống, biết sống vì mọi người, điều đó đã tạo cho nhà thơ tâm trạng an vui như thế. Cách sử dụng điển cố của Trịnh Hoài Đức không gây cho người đọc cảm giác khó hiểu, xa vời mà ngược lại. Bởi nhà thơ diễn đạt chúng một cách tự nhiên, thoải mái, không khô khan trần trụi, cũng không quá trau chuốt, vừa đủ tạo cho người đọc 30 sự kích thích liên tưởng. Chính những ngôn ngữ gián tiếp này biểu đạt một cách sâu sắc giá trị nội dung tư tưởng của tác giả. Chẳng hạn bài thơ Quang Hoá Hồ già: Lí tướng ai ngâm đồng nhập điệu, Minh phi oán khúc nhược lưu thần. (Cùng nhập điệu với tiếng ngâm buồn của Lí Quảng, Có cái thần của khúc đàn ai oán Chiêu Quân). Điển cố đã khơi gợi lại một câu chuyện, đưa quá khứ hiện diện lên trang thơ. Điển cố như một loại hình ngôn ngữ gián tiếp với hai lần giá trị biểu trưng: đó là những từ ngữ không biểu đạt hàm ý ngay trong bản thân từ mà thay thế cho một câu chuyện, một sự tích. Một lần nữa, những câu chuyện, sự tích ấy lại chuyển tải một nội dung ý nghĩa nhất định và nội dung ý nghĩa ấy mới là cái đích hướng tới của các tác giả. Đây là hai cấp độ ý nghĩa của điển cố, trong đó cấp độ thứ hai thường gặp trong văn học hơn cả. Tác giả sử dụng chúng nhằm để diễn đạt nội dung chứ nó không hẳn khơi gợi nguồn cảm hứng. Vì từ hình thức sự vật, người ta nhìn thấy ngụ ý bên trong. Điển cố luôn mang hai nghĩa, nghĩa đen và nghĩa bóng. Xuyên qua lớp nghĩa đen, đến lớp nghĩa bên trong mới thực sự tìm thấy bản chất của vấn đề. Nếu khéo sử dụng điển cố thì những chữ ngắn gọn hàm chứa ý nghĩa sâu xa là phương tiện diễn đạt tốt nhất, giúp lời, ý thêm đậm đà, lí thú. Chọn điển cố hay có thể làm tăng cái đẹp, hàm súc trong lời thơ, nhanh chóng đạt hiệu quả “ngôn hữu tận nhi ý vô cùng” (lời hết nhưng ý không cùng) [1]. Chẳng hạn, khi ca ngợi triều đại thịnh vượng, nhà thơ dựa vào điển thuỳ củng nhi thiên hạ trị (ông vua ngồi một chỗ mà thiên hạ bình trị) trong Kinh thi. Muốn nói lên khí tiết cao nhã, trong sạch, tác giả mượn điển tích Lâm Bô - ẩn sĩ đời Tống, người không cầu danh lợi để tự khẳng định bản thân: Mộng lí kí bằng Lâm xử sĩ, Mạc lai u hác nhiễu khiên triền. (Trong mộng gửi nương xử sĩ họ Lâm, Đừng đến chốn thanh u mà quấy nhiễu mãi). Điển cố trong Gia Định tam thập cảnh được sử dụng để tăng cường lượng thông tin biểu đạt, tính hàm súc cho bài thơ. Chúng đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện giá trị biểu cảm của câu thơ. Qua những tích đó, sức truyền cảm, tính hàm súc của bài thơ càng tăng lên mạnh mẽ. Vì chúng trước hết được bắt nguồn từ trong sách vở thánh hiền nhưng khi vào thơ Trịnh Hoài Đức, được ông tái hiện lại một cách gần gũi với hiện thực đương thời, làm cho người đọc dễ nắm bắt, dễ thông thuộc hơn như: Vong cơ nhàn khách chẩm hương miêu. (Quên đời, khách nhàn gối đầu vào búp thơm) Hoặc: Cựu minh do đãi trục lai triều. (Hẹn cũ còn chờ nước triều lên) Cả vong cơ lẫn cựu minh đều chỉ khí tiết của người nho sĩ, vì không thích nhập thế, họ tìm về chốn mây nước để ở ẩn, để quên đời, để làm bạn thanh sạch với chim âu. Muốn nói rõ ý định của mình, tác giả thật khó giải bày cho cặn kẽ. Nhưng khi khái quát hai điển cố trên, tác giả đã diễn đạt một cách trọn vẹn tâm tư của mình mà lời thơ vẫn thanh nhã, tinh tế. Vì thế, Liên chiểu miên âu nói về chim le nhưng thực ra là để nói về con người, triết lí chiều sâu trong thơ Trịnh Hoài Đức luôn làm người đọc phải tự vấn là thế. Điển cố chính là “trợ thủ đắc lực để lời được nhẹ nhàng, ý 31 được thanh tao, nghiêm túc”[2]. 3. Việc vận dụng hệ thống điển cố trong thơ Trịnh Hoài Đức vừa thể hiện được đặc trưng hình thức của thơ ca trung đại, vừa là nét độc đáo trong lối thể hiện bút pháp nghệ thuật của nhà thơ. Điều đó chứng tỏ, nhà thơ phải có vốn văn hoá uyên bác mới có thể sử dụng một cách hiệu quả điển cố để tăng cường khả năng biểu đạt của nó, phù hợp với kiểu tư duy hình tượng, lối suy nghĩ sâu sắc, thâm thuý, sự ưa chuộng, bộc lộ cái thần, cái cốt lõi, nói ít hiểu nhiều của con người Việt Nam thời trung đại. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lixêvic. I. X (2000), Tư tưởng văn học cổ Trung Quốc (Trần Đình Sử dịch), Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 2. Đoàn Ánh Loan (2003), Điển cố và nghệ thuật sử dụng điển cố, Nxb. Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Nguyễn Lộc (1990), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 4. Phương Lựu (2006), Tập 1 - Tuyển tập, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 5. Huỳnh Minh (2001), Gia Định xưa, Nxb. Thanh niên, Hà Nội. 6. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 7. Nhiều tác giả (2002), Nam Bộ đất và người, Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb. Trẻ.
File đính kèm:
- su_dung_dien_co_dien_tich_trong_tho_trinh_hoai_duc.pdf